30 NĂM NGHỆ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM: NGỘ NHẬN VÀ CƠ HỘI

 

Có nhiều quan điểm khác nhau (thậm chí mâu thuẫn) về lịch sử và lịch đại của nghệ thuật thuật đương đại Việt Nam, từ sau Đổi mới (1986) đến nay, sau gần 30 năm, vẫn chưa có tiếng nói nhất quán. Bởi một nghĩa nào đó, “đương đại” cũng là đang và sắp diễn ra, nên luôn sinh động, biến thiên, khó nắm bắt. Điều này cũng tương tự như việc ngày nay chúng ta nhìn về các cột mốc mỹ thuật thời phục hưng, thời baroque, cổ điển, ấn tượng, hiện đại… sẽ thuận lợi hơn thời đó người ta nhìn về chính họ. Chính vì vậy, với nghệ thuật đương đại Việt Nam vẫn hiện diện nhiều ngộ nhận, và cũng là cơ hội.

Không có một định nghĩa cụ thể, bất biến cho nghệ thuật đương đại Việt Nam, đây có thể là khẳng định duy nhất.

  1. Ngộ nhận đầu tiên, và có lẽ cũng rõ ràng nhất, đó là về loại hình, về nhận diện. Đành rằng những loại hình như sắp đặt (installation), trình diễn (performance), video-art, video-sắp đặt, ý niệm (conceptual art), hòa trộn (mixed media), đa phương tiện (multimedia art), liên phương tiện (intermedia)… thường được nghệ thuật đương đại thế giới, rồi Việt Nam, sử dụng nhiều. Nhưng không cứ sử dụng các loại hình như vừa nêu, và còn rất nhiều loại hình nữa, là đương đại.

Chính thực tế như vậy, nên khi nhìn lại các thực hành/giám tuyển của Đào Anh Khánh, Trần Lương và đồng sự tại Hà Nội, rồi Jun Nguyễn-Hatsushiba, Dinh Q. Lê, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Như Huy, Bùi Công Khánh, Ưu Đàm (TP.HCM), Lê Ngọc Thanh – Lê Đức Hải (New Space Art Foundation, Huế), Ngô Lực…, danh sách còn rất dài, thật khó để rạch ròi đâu là đương đại, đâu là chưa. Các hệ quả và hiệu quả từ công việc giám tuyển mà Trần Lương, Nguyễn Minh Phước, Hoàng Himiko, Lê Brothers, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Như Huy, Phương Linh, Bill Nguyễn, Arlette Quỳnh-Anh Trần… đã và đang làm cũng vậy. Dù về lịch đại và ý chí, rõ ràng họ đang chọn các loại hình, hoặc ý niệm đương đại để tỏ bày.

NGUYỄN TRẦN ƯU ĐÀM – The Real Distances of things Measured. 2015

 

Tác phẩm sơn mài sắp đặt của Nguyễn Oanh Phi Phi tại Singapore Biennale 2013.

Một ví dụ. Triển lãm đương đại “Miền méo miệng” – do Trần Lương giám tuyển, diễn ra từ ngày 14/6 đến 1/11/2015 tại Bildmusee (Đại học Umea, Thụy Điển) – là một kết hợp đa phong cách, nên có vẻ mâu thuẫn, bát nháo và thú vị. Bởi rõ ràng cách tiếp cận, bày tỏ của những nghệ sĩ trong này khá khác nhau. Bàng Nhất Linh, Nguyễn Huy An khác Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Trinh Thi, Nguyễn Phương Linh…; Nguyễn Thế Sơn, Trương Công Tùng khác Phạm Trần Việt Nam, Trần Tuấn…; Trần Kim Ngọc khác Ưu Đàm Nguyễn.v.v… Theo nhà tổ chức: Triển lãm trưng bày các video, tranh, tác phẩm điêu khắc và sắp đặt của nghệ sĩ Việt Nam đang hoạt động tại quê hương. Nếu rạch ròi thì có các tác phẩm là đương đại, có cái là chưa, nếu nhìn trong chỉnh thể sống động, thì đây mới là đương đại: nơi chung sống của nhiều loại hình.

Cho nên, đôi khi mâu thuẫn, bát nháo về loại hình lại là một tinh thần đương đại thú vị, bởi cuộc sống không thể loại bỏ hoặc hòa nhập hoàn toàn. Các định nghĩa về hiện đại, cổ điển và trước đó nữa (dù chúng vẫn tiếp diễn cho đến nay) thì đã tương đối định hình, còn định nghĩa về đương đại lại bất ổn, thành ra thiếu cơ sở để so sánh, vừa dễ ngộ nhận, vừa rất thú vị.

  1. Từ thực tế như trên, gần 30 năm qua vẫn còn một ngộ nhận khác, những tác phẩm thuộc loại hình (tạm gọi là) “truyền thống” như điêu khắc, gốm, in khắc, tranh giá vẽ, sơn mài… bị cho ra rìa khỏi đương đại. Cách nhìn loại trừ này không phải ai cũng chia sẻ, nhưng rõ ràng tại Việt Nam khá phổ biến, đã có nhiều người ủng hộ ra mặt, ngay trong giới nghệ sĩ. Đào Anh Khánh, Lê Ngọc Thanh – Lê Đức Hải, Ngô Lực… từng phát biểu công khai rằng họ lấy việc bán tranh vẽ để nuôi nghệ thuật đương đại. Nghĩa là với họ, tranh giá vẽ thuộc về loại hình khác, còn đương đại phải là trình diễn, sắp đặt, ý niệm… Như vậy thì những mô hình như Zone 9, X98, The Yard, Art For You (Hà Nội), chợ nghệ thuật, chợ Bọ Chét, The Factory (TP.HCM)…, nơi trưng bày/buôn bán đủ thứ, đôi khi loạn xà ngầu, nên gọi là gì nếu không phải là đương đại.

Tại Singapore Biennale 2013, Nguyễn Oanh Phi Phi đưa đến một sơn mài-sắp đặt gây ấn tượng mạnh với quốc tế. “Chui vào” trong tác phẩm này, chỉ xét về loại hình (dù ý niệm của nó mới là quan trọng), thật bối rối khi định danh, dù kỹ thuật sơn mài đạt mức mẫu mực, nhưng liệu tác giả có muốn làm sơn mài thuần túy. Việt Nam hiện đại có một câu khá lý thú: “Tư tưởng không thông vác bình không cũng nặng”. Cũng giống như Sol Lewitt (1928-2007): “Một sắp đặt huy hoàng không thể cứu vãn nổi một ý tưởng nhạt nhẽo”. Với nghệ thuật đương đại, nhất là những quốc gia còn manh mún lý thuyết, tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn như Việt Nam, nhiều khi “thấy dzậy mà không phải dzậy”.

Trong khi đó, những quan niệm mới cho thấy loại hình không quan trọng bằng việc các tác giả chuẩn bị cho mình tâm thế ra sao. Nếu họ có tâm thế và văn cảnh đương đại thì thực hành, diễn ngôn của họ sẽ đương đại. Và ngược lại. Không nhận ra điều này, tác giả hoặc khán giả ngộ nhận cũng là đương nhiên.

Một tác phẩm của Jun Nguyễn – Hatsushiba được trưng bày tại Manchester Gallery năm 2008.

 

The Factory tại Tp. HCM được định danh là một trung tâm nghệ thuật đương đại, nhưng nếu rạch ròi, thì không phải tác phẩm nào cũng là đương đại.
  1. Sau năm 1975, mỹ thuật Việt Nam được nước ngoài mua tại Hà Nội từ khoảng 1985, cùng với các “truy lùng” về cổ vật, sản vật quý hiếm. Khi nghệ thuật đương đại ra đời từ sau 1986, thì nghệ thuật Việt Nam cũng bắt đầu manh nha xuất hiện tại các phiên giao dịch, đấu giá quốc tế. Song hành đó là tình trạng tranh giả, tranh nhái, tranh chép… tràn lan, làm cho người mua vừa mua vừa ngờ vực, niềm tin dần dần bị phai mòn.

Với bối cảnh như vậy, đã có vô vàn ý kiến cho rằng nghệ thuật đương đại là vứt đi, bởi nếu có giá trị thì phải có người mua chứ. Ý kiến này không chỉ đến từ những đầu óc vô minh, xem thường lý thuyết và trào lưu, mà còn đến từ những người đã biết một trong những lý do của đương đại là chống lại sự sở hữu, mua bán. Vì vậy, sự thành công của đương đại, nếu có được công nhận, phải đồng nghĩa với việc họ được mời đi nước ngoài trưng bày, triển lãm, giao lưu… Trong khi chủ đích chính của đương đại vẫn là thực hành tại địa phương, nếu được, thì “suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương” là tốt hơn.

Nghệ thuật đương đại thường “không bán được”, ở Việt Nam càng rõ, không chỉ dẫn đến vô số ngộ nhận từ cái nhìn bên ngoài, mà bản thân các nghệ sĩ cũng hoang mang. Nhiều người, ví dụ Trương Tân và các cái tên đã kể ở trên, còn nhiều nữa, đã phải chuyển hướng hoặc tạm chuyển hướng để kiếm tiền sinh sống. Bởi nhìn chung thì họ ít được tài trợ, hoặc được tài trợ không đủ (mà đương đại luôn cần tài trợ)… nên không đủ tài lực để làm tác phẩm thường xuyên. Nhiều người đã bỏ hẳn đương đại.

Sau này, khi mà những tác phẩm đương đại của Jun Nguyễn-Hatsushiba, Dinh Q. Lê, Bùi Công Khánh… được các bảo tàng lừng lẫy thế giới mua với giá cao ngất ngưởng, không thua gì tác phẩm đỉnh của nhiều danh họa Việt Nam, cái nhìn về đương đại mới ít nhiều thay đổi. Rõ là, loại hình không quan trọng bằng việc tài năng, sức sáng tạo, tầm ảnh hưởng, cái duyên của nghệ sĩ đến đâu. Điều này cũng tương tự như nhiều họa sĩ theo loại hình truyền thống thuần túy, đâu phải ai cũng bán được.

TRẦN TUẤN – Forefinger. 2013 – 2015

 

Anh em Lê Ngọc Thanh – Lê Đức Hải tự mua đất xây không gian New Space Arts Foundation (NSAF) tại Huế.
  1. Một ngộ nhận chính quy hơn, đó là nghệ thuật đương đại rất ít khi được các trường mỹ thuật tại Việt Nam đồng hành, hỗ trợ. Thứ nhất, điều này đến từ quan niệm về giáo dục: chỉ dạy những gì đã ổn định, ít có tranh luận và phát sinh. Thứ hai, lịch sử gốc của các trường mỹ thuật tại Việt Nam là để dạy “thợ vẽ”, những điều gì thiên nhiều về tư tưởng, ý niệm, cách tân… thì còn e dè. Thứ ba, khi cần quan tâm, đồng hành, hỗ trợ, họ thiếu nhân sự hoặc cái nhìn đủ cởi mở.

Một ngộ nhận khác là do thiếu hệ thống lý luận, phê bình, nghiên cứu, truyền thông, thẩm định, thị trường, tài chính… để cập nhật, định danh. Khoảng 5-7 năm trở lại đây nghệ thuật đương đại đã bắt đầu đi vào nhà trường, thế nhưng vẫn còn phiến diện, manh mún, nên đôi khi cực đoan theo kiểu “mặt trận”, phe này phe kia.

Đã có vài chục triển lãm xưng danh và xứng danh đương đại tại Việt Nam, nhưng một bảo tàng hoặc một không gian công cộng chuyên dùng cho đương đại thì còn vắng bóng. Câu chuyện đương đại vốn do tư nhân và là chuyện của tư nhân suốt 1/4 thế kỷ vừa qua. Đào Anh Khánh trình diễn “ngay trong vườn” nhà mình, Lê Ngọc Thanh – Lê Đức Hải mua đất xây không gian, Ngô Lực “đụng đâu làm đó”, Nguyễn Như Huy thuê nhà làm Ga 0… là những ví dụ về hiện trạng.

  1. Từ những ngộ nhận như trên (còn nhiều ngộ nhận khác nữa), việc định nghĩa và tái định nghĩa về đương đại sẽ làm nên cơ hội mới. Bởi, nếu quy chụp đương đại vào những loại hình cứng nhắc, không chỉ là quan niệm phiến diện, lỗi thời, mà còn khiến cho cái nhìn nghi kị thêm đất sống, hố thẳm cách ngăn thêm rộng mở.

Thay đổi được quan niệm thì những ngộ nhận kia sẽ biến thành cơ hội, bởi nghệ thuật đương đại Việt Nam như mảnh đất đã khai hoang, khá màu mỡ, chỉ chờ nhiều cây trái xum xuê mà thôi.

Lý Đợi 

(*) Bài viết đã được đăng trên Tạp chí Mỹ thuật số 301 & 302 tháng 1-2 năm 2018 

Tin cùng chuyên mục

Bức tranh toàn cảnh Panorama – thêm dấu ấn về Chiến dịch Điện Biên Phủ

(ĐCSVN) – Từng đặt chân đến miền đất lịch sử Điện Biên Phủ nhiều lần, nhưng chưa lần nào chúng tôi thấy hào hứng như lần này. Đó là trong không khí hân hoan cả nước hướng tới kỉ...

Vẻ đẹp nội Tâm trong hội hoạ Văn Chiến

Đường “link” dẫn dắt đến với hội hoạ trải qua 40 năm, mang đến cho hoạ sĩ một trái tim đầy rung cảm với nhiều trạng thái của cảm xúc mà tạo nên cú hích trong nghệ thuật mang sắc thái...

Dám – Trong “Khoảng lặng II” của họa sĩ Dũng trống

Những bức tranh này hay quá, cả nội dung và màu, xem rất thích. Vị khách ngắm tranh thốt lên khi gặp các tác phẩm mới của hoạ sĩ Dũng Trống, thành quả anh vẽ gần hai năm nay, anh âm thầm sáng tác...

Mạn đàm về sáng tác mỹ thuật đề tài “Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng”, đánh giá và giải pháp

Có thể khẳng định rằng tranh – tượng về đề tài Lực lượng vũ trang & Chiến tranh Cách mạng (LLVT & CTCM) đã hiện diện trong đời sống và lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam trước...

Mỹ thuật ứng dụng: Tiềm năng lớn để phát triển ngành công nghiệp văn hóa

Mỹ thuật ứng dụng là một lĩnh vực rộng, đã và đang chạm vào mọi mặt của đời sống xã hội. Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, việc phát triển mỹ thuật ứng dụng, với các sản phẩm, thiết...

Tin cùng chuyên mục

Họa sĩ Nguyễn Linh tổ chức triển lãm”Nguyễn Linh 6″ tại TP. HCM

Ngày 5/5/2024, triển lãm Nguyễn Linh 6 của hoạ sĩ Nguyễn Linh đã khai mạc tại An Gallery, 159 Đồng Khởi, Quận 1, đánh dấu cột mốc lần đầu tiên trong sự nghiệp ông chính thức ra mắt những đứa con...

Khai mạc triển lãm “Hoạ sĩ Lê Huy Toàn – Ký ức Điện Biên” tại Hà Nội

Hòa cùng không khí cả nước kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 – 7-5-2024), hôm nay ngày 4-5-2024 tại Phòng tranh Aqua Art – 44 Yên Phụ, Hà Nội, Quỹ hỗ trợ Bảo tồn di sản văn...

Khai mạc trại sáng tác Gốm Sắc Hạ 2024

Sáng 03/5, tại Trung tâm Tinh hoa làng nghề Việt, Bát Tràng đã diễn ra lễ khai mạc trại sáng tác gốm Sắc Hạ 2024 của các nghệ sĩ đến từ Câu lạc bộ Gốm nghệ thuật – Hội Mỹ thuật Việt Nam....

Sôi nổi Hội thi vẽ “Tây Hồ quê hương em”

Hưởng ứng Ngày Sách và văn hóa đọc Việt Nam (21/4), sáng 17/4 tại Trung tâm Văn hóa Thông tin và Thể thao quận Tây Hồ, quận Tây Hồ đã tổ chức Ngày Sách và Văn hóa đọc quận Tây Hồ năm 2024. Phát...

“Tháng Tư hy vọng” – thắp sáng ước mơ hội họa cho trẻ tự kỷ

Triển lãm tranh của trẻ tự kỷ với chủ đề “Tháng Tư hy vọng” vừa khai mạc hôm nay (17/4) tại Hà Nội. Triển lãm mang đến cho công chúng Hà Nội hơn 60 tác phẩm của 13 “họa sĩ” là...

Có thể bạn quan tâm

Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm tổ chức triển lãm kỷ niệm 70 chiến thắng Điện Biên Phủ

Triển lãm kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024) do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm tổ chức tại Nhà triển lãm 29 Hàng Bài, Hoàn Kiếm,...

DẤU ẤN HỘI HỌA VIỆT NAM Ở THƯỢNG HẢI

  Từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 11, Hiệp hội Hữu nghị Đối ngoại Trung Quốc và các tổ chức liên quan phối hợp tổ chức triển lãm nghệ thuật quốc tế “Mang thế giới đến với nhau – Cùng...

Một thời làm tranh sơn mài ở Sài Gòn

  Nghệ thuật vẽ tranh sơn mài được tìm tòi và phát triển nhờ các giáo sư và sinh viên của trường Mỹ thuật Đông Dương, đã sớm có thành tựu với nhiều tác phẩm được yêu thích từ thời...

Bài 2: Để bảo tàng thực sự ‘hữu xạ tự nhiên hương’

(Chinhphu.vn) – Nếu như trước đây, bảo tàng không nằm trong danh sách những nơi cần phải đến của khách du lịch khi đến Việt Nam, hay của chính những người dân Việt Nam, thì nay mọi thứ đang...

LÊ PHỔ – BẬC THẦY HẬU ẤN TƯỢNG

  Nhà phê bình nghệ thuật Pháp, Waldemar George, đã viết rất nhiều về những nghệ sĩ hàng đầu của thế kỷ 20, sớm xuất bản một cuốn sách về những bản vẽ của Henri Matisse vào năm 1925, và...

MỘT THỜI TRANH TẾT

  Có lẽ tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống là hai loại tranh tết đầu tiên tôi được biết đến của dân ta. Ban đầu cũng nghe qua một số người nghiên cứu nghệ thuật nói thế. Rằng thời...