Vào giữa thế kỷ 19, lợi dụng sự xung đột nội bộ giữa các tôn giáo, các tiểu vương quốc trên lãnh thổ Ấn Độ, người Anh, thông qua công ty Đông Ấn, đã dần dần kiểm soát gần hết tiểu lục địa Ấn Độ và áp đặt chế độ thực dân, được gọi là “Raj thuộc Anh”. Sự áp chế về chính trị đã dẫn theo sự áp chế về nghệ thuật. Phong cách Công ty (Company style) ra đời và được chính quyền thực dân ủng hộ. Những nghệ sĩ đi theo xu hướng này phần lớn đã từng làm việc trong các chi nhánh của công ty Đông Ấn và các công ty nước ngoài khác. Đó là một phong cách chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa Lãng mạn Anh, sử dụng chất liệu thuốc nước là chủ yếu, hình họa và phối cảnh của phương Tây nhưng vẫn lưu giữ chút ít âm hưởng nghệ thuật Mughal truyền thống.
Bước sang thế kỷ 20, cùng với các phong trào đấu tranh chính trị xã hội để giành độc lập, ý thức dân tộc trong giới văn nghệ sĩ cũng được đẩy lên cao mà tiêu biểu nhất là hoạt động của gia tộc Tagore. Gia tộc này có nguồn gốc từ Calcutta, đã dẫn dắt phong trào Phục hưng vùng Bengal và sản sinh ra nhiều vĩ nhân cho Ấn Độ trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tôn giáo, xã hội, văn học nghệ thuật… trong đó có đại thi hào Rabindranath Tagore. Trong lĩnh vực mỹ thuật, một người thuộc gia tộc này là Abanindranath Tagore, mà theo gia phả là cháu họ của Rabindranath Tagore, đã có công rất lớn trong việc xây dựng nền mỹ thuật hiện đại Ấn Độ tự chủ và độc đáo trước thách thức của nghệ thuật Thực dân phương Tây.
Abanindranath Tagore (1871-1951) là người sáng lập Hội nghệ thuật phương Đông Ấn Độ và trường phái nghệ thuật Bengal, một dòng chủ lưu và có ảnh hưởng sâu sắc tới nghệ thuật Ấn Độ thế kỷ 20. Chính vì vậy mà có nhiều ý kiến cho rằng ông chính là “cha đẻ của mỹ thuật hiện đại Ấn Độ”. Tagore tin vào các hình thức và kỹ thuật vẽ tranh truyền thống của Ấn Độ, đồng thời nghi ngờ nền nghệ thuật phương Tây mà ông cho rằng quá thiên về “vật chất”. Tư tưởng xuyên suốt trong các tác phẩm của ông là quay về với cái gốc tinh thần của nghệ thuật truyền thống Ấn Độ. Tuy nhiên, Tagore không bám víu vào truyền thống một cách cứng nhắc và sô-vanh, mà vẫn cho thấy sự chịu ảnh hưởng từ các nghệ sĩ phương Tây hiện đại, đặc biệt là từ họa sĩ người Mỹ Whistler. Một phần vì lý do này mà các nhà quản lý nghệ thuật Anh trước cách mạng đã phải “nhắm mắt” chấp nhận tư tưởng mang tính dân tộc của ông. Tagore cho rằng truyền thống Ấn Độ có thể được điều chỉnh để thích ứng với những giá trị mới của phương Tây. Điều này đồng thời cũng sẽ thúc đẩy một nền nghệ thuật tiến bộ và đặc sắc của Ấn Độ.
Mặc dù sớm ý thức được tính dân tộc trong nghệ thuật, nhưng khởi đầu sự nghiệp hội họa Tagore cũng có mối liên hệ nhất định với phong cách Công ty, như ta thấy ở các tác phẩm “Chuyến ghé thăm của Shah Jahan” (1902), “Đêm nhạc hội” (1906), “Hoàng hậu của Asoka” (1910)… Càng về sau Tagore càng bị ảnh hưởng nhiều hơn từ lối vẽ tiểu họa truyền thống; ông từ chối cách vờn khối mạnh cũng như luật phối cảnh của phương Tây, đồng thời đề cao không gian huyền bí, nửa thực nửa hư của những câu chuyện lịch sử, truyền kỳ dân gian. Loạt tranh vẽ theo đề tài “Nghìn lẻ một đêm” khoảng năm 1928-1930 là tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp của Tagore. Ở đó, ông đã gửi gắm quan điểm xã hội và tư tưởng nghệ thuật của mình vào trong các truyện cổ bằng lối thể hiện giàu tính ẩn dụ. Qua các bức tranh của mình, Tagore đã khéo léo phơi bày những bất công của xã hội thực dân và dự cảm về một chủ nghĩa quốc tế đại đồng, công bằng cho các dân tộc.
Về sau, Tagore đã có cơ hội tiếp xúc với các nhân vật văn hóa châu Á khác, như nhà sử học nghệ thuật Nhật Bản Okakura Kakuzo và họa sĩ Yokoyama Taikan. Qua đó, ông bắt đầu kết hợp các yếu tố truyền thống thư pháp Trung Quốc và Nhật Bản vào nghệ thuật của mình, đồng thời tìm cách xây dựng một mô hình chung cho nghệ thuật châu Á hiện đại kết hợp các yếu tố văn hóa tinh thần truyền thống.
***
So sánh Abanindranath Tagore với những họa sĩ bậc thầy đầu tiên tốt nghiệp từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương như Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí… chúng ta thấy có sự tương đồng nhất định. Đó là ý thức xây dựng một nền nghệ thuật dân tộc độc lập giàu bản sắc, dùng các công cụ tiên tiến của thực dân phương Tây để phát huy mạch truyền thống bản địa. Thực dân, dù sao cũng là một chương đau buồn trong lịch sử của Ấn Độ, Việt Nam, nhưng nhờ vào vốn truyền thống sâu dày mà những nghệ sĩ của các nước thuộc địa đã dung nạp tài tình cái “tiên tiến” của phương Tây để làm phong phú thêm nền nghệ thuật của chính mình.
Huệ Viên
(*) Bài viết đăng trên Tạp chí Mỹ thuật số 307-308, tháng 7-8 năm 2018.