Triển lãm “Ký ức” của họa sĩ Nguyễn Hồng Hưng diễn ra tại Nhà triển lãm Mỹ thuật 16 Ngô Quyền, Hà Nội từ ngày 7 tháng 5 năm 2021. Không có lễ khai mạc vì Covid, nhưng vẫn được mở cửa đón khách xem tranh. Ai cũng được “bắn” súng đo nhiệt độ, khai báo y tế và phải đeo khẩu trang mới được vào. Khách đến đông khiến phòng tranh tầng 1 nhà 16 Ngô Quyền trở nên chật chội. Bốn mươi bảy bức tranh treo đều phủ lụa vàng, như trong đền miếu. Sau mấy lời của tác giả, những vải phủ ấy mới được gỡ xuống để mọi người thấy tranh. Ông nói ông vẽ không theo mẫu thật, chỉ theo ký ức. Rằng ông vẽ đúng theo cảm giác của mình. Người xem cảm nhận thế nào cũng là đúng. Tranh ông, vì vậy, mà không có đúng/sai. Có phải ông vẫn ngại về chuyện đúng sai?
Trong tờ rơi tác giả đưa tận tay người xem, có mấy lời của họa sĩ Thành Chương, gọi ông là hoạ sĩ đa phong cách, vì ông vẽ không giống bất kỳ ai, và cũng không sao chép chính mình.
Qua cửa là thấy hai mô hình lớn của hai cuốn sách ông viết về “Nguyên lý Design Thị giác” và “Bố cục Thị giác” – tài liệu giảng dạy của ông hơn hai mươi năm qua ở nhiều trường đại học phía Nam. Tôi đã được đọc hai cuốn sách học thuật đồ sộ rất công phu này của ông, khiến tôi tin rằng ông làm tượng vẽ tranh đều theo nguyên lý đúng/sai của logic tự nhiên. Và những “phá cách” của ông chỉ là ý định thay nguyên lý chung bằng nguyên lý của riêng mình, có thể là vô thức. Đây cũng là hiện tượng phổ quát của nghệ thuật từ “hiện đại” đến “hậu hiện đại” và “đương đại”, thôi thúc bởi mong muốn phải khác biệt, phải “mới”, phải chưa có ai làm như vậy.
Những tranh vẽ chữ cái theo “cấu trúc nghịch lý” của ông khiến tôi nhớ đến các những cấu trúc bất khả thi vẽ rất tinh vi phức tạp của M.C. Escher (1898-1972), và nhiều lối vẽ khác khai thác những hiện tượng trong nhận thức thị giác. Cái bình “tâm trống không” nhắc tôi rằng phải có cái bình mới có cái trống không trong lòng nó. Phải có đặc mới có rỗng. Chân dung Tất Đạt Đa Cồ Đàm cho thấy quan niệm Phật giáo của ông rất khác với của tôi…
Với tôi, những ký ức thấm đẫm tình cảm của ông đều vẫn sống trong hình hài nhìn thấy được của hiện thực, như “Phố Chợ Gạo”, hai bức “Phố Lò Đúc”, “Ký ức đồng quê”, “Chân dung bà Yến”, và cả “Ký ức Hà Nội”. Những ký ức về một cảm giác đã được khái niệm hoá qua ngôn ngữ như “Ký ức Đỏ” hoặc “Đường dẫn”… thì ông phải tạo hình theo lối biểu tượng, kỷ hà…mà là của riêng mình, nên ông mới dặn người xem cảm nhận thế nào cũng đúng, với ý rằng không cần đúng với ý đồ của ông khi vẽ. Mấy bức tranh vẽ ngựa thì tôi không thấy chất ký ức mấy, mà là những nghịch ngợm vui vẻ tinh quái của ông với tạo hình đồ hoạ.
Một điều khiến tôi yên tâm hơn cả, khi rời phòng tranh, là một cảm giác rất rõ về tính chân thực, tự tin và tự trọng của tác giả. Nó cũng tương tự như những hình vuông đen trắng của Malevich. Khi ta vẽ với tất cả niềm tin trung thực để diễn đạt xác tín của mình, chứ không vì bất kỳ điều gì khác, nhất là thời thượng, thì từng nét vẽ của ta sẽ chứa đựng cái “sinh lực trung thực” ấy, và tự nó sẽ có sức thuyết phục.
Trịnh Lữ