Tên tuổi của gốm Biên Hòa gắn liền với Trường Mỹ nghệ Biên Hòa. Trường Mỹ nghệ Biên Hòa gắn liền với tên tuổi ông bà Balick.
Thời kỳ ông bà Balick (1923 – 1950)
“Thời Balick” là cách nói gọn của thời kỳ ông bà Balick làm hiệu trưởng Trường Mỹ nghệ Biên Hòa từ năm 1923 đến năm 1950.
Ông Robert Balick sinh 24/4/1894 tại Paris. Bà Mariette Brallion sinh 8/6/1898 tại Nancy Meurthe et Moselle, Pháp. Mariette học trường gốm Limoges và làm việc tại Sèvres, Robert tốt nghiệp Arts Décoratifs.
Cuốn “Việt Nam – Đồng Nai trăm năm nhìn lại” của Nhà Bảo tàng Đồng Nai (NXB Đồng Nai – 2001), trang 31, có đoạn ghi: “Ngày 23/1/1923, ông bà giáo sư Robert Balick được cử từ Pháp sang giữ chức hiệu trưởng và chuyên viên gốm Trường Mỹ nghệ Biên Hòa”.
Ngày 29/04/1950, ông bà Balick về hưu, khép lại quãng thời gian 27 năm (1923 – 1950) ông bà ở trường Mỹ nghệ Biên Hòa, giai đoạn mà người ta thường gọi là “giai đoạn ông bà Balick”, một giai đoạn vàng son của gốm Biên Hòa.
Đặc điểm của gốm Biên Hòa thời Balick
Đặc trưng chính của gốm Biên Hòa thời Balick: trang trí bằng chạm khắc chìm, tráng men nhiều màu kể cả phông nền.
“Trường phái” gốm Biên Hòa phát sinh từ trường Mỹ nghệ Biên Hòa do ông bà Balick làm hiệu trưởng, hay nói khác đi gốm Biên Hòa do ông bà Balick khai sinh ra và làm cho nó nổi tiếng trong và ngoài nước.
Theo nhà khảo cứu Lương Văn Lựu (1916 – 1992) trong cuốn Biên Hòa sử lược in năm 1960, thì gốm của Trường Mỹ nghệ Biên Hòa có một số đặc điểm riêng mà các dòng gốm khác không có được đó là:
– Không có mỏ đất sét trắng, dẻo, nhiều nhựa và chịu đựng lửa như hầm đất tại Tân Hòa, quận Tân Uyên.
– Không có nước men đặc biệt do sự phân phối và pha chế đúng mực độ theo công thức riêng của trường.
– Kỹ thuật xoay, trang trí, tráng men phải được nhiều công phu đầy tỉ mỉ và cố gắng.
– Kỹ thuật hầm (nung) phải có nhiều kinh nghiệm riêng biệt; từ sáng tác đến hoàn thành, đều chỉ làm bằng tay chân.
Men Pháp tráng lên gốm phương Đông không phù hợp, bà Balick lập nhóm nghiên cứu men, bà và nhóm nghiên cứu đã tìm ra một hệ thống men đặt tên là “men ta” dùng nguyên liệu trong nước như đá trắng An Giang, vôi Càng Long, tro rơm, tro củi (tro lò), tro trấu và kiếng, còn kim loại tạo màu là mạt đồng do làm nguội sản phẩm đúc đồng của trường, đá đỏ (đá ong Biên Hòa) và bột màu dương (côban). Màu men nổi tiếng “Vert de Bienhoa” là hệ thống men xanh đồng của Biên Hòa, ngoài ra còn có màu đá đỏ, trắng ta cũng được ưa chuộng, nhiệt độ nung 1280°C – 1300°C.
Chất lượng sản phẩm gốm Biên Hòa thời ông bà Balick được đặt lên hàng đầu. Từ năm 1950, sau khi ông bà Balick về hưu, dưới sự điều hành của những người Việt, gốm Biên Hòa về chất lượng bớt khắt khe hơn so với thời ông bà Balick, hàng bán được hơn với giá dễ chịu. Tuy nhiên, có lẽ cũng vì chất lượng giảm dần nên thương hiệu gốm Biên Hòa ngày càng mất dần thị trường.
Tham gia các cuộc triển lãm, thành lập Hợp tác xã Mỹ nghệ Biên Hòa
Để có đơn đặt hàng cho học trò học tập và sản xuất, nhà trường trưng bày sản phẩm tại phòng trưng bày của trường, tại Sài Gòn và tham dự các hội chợ triển lãm ở trong nước cũng như nước ngoài. Nhằm tìm kiếm các đơn đặt hàng cho học sinh, tạo điều kiện công ăn việc làm cho học sinh sau khi ra trường.
Năm 1925, trường tham dự Hội chợ triển lãm quốc tế về mỹ thuật trang trí và công nghệ hiện đại tại Paris. Ngoài sự phát huy các chủ đề cũ, sản phẩm tham dự lần này chú trọng vào các loại sau:
– Các loại bình gốm trang trí bằng chạm khắc chìm.
– Vòi phun trang trí bằng gốm.
– Các loại tượng gốm.
– Gốm trang trí tường.
Trong triển lãm này, gốm Cây Mai cũng tham dự, họ trưng bày các loại hình đẹp, các loại đế bằng sành nhiều màu. Tuy nhiên các loại bình trang trí đẹp mắt, các tượng gốm với nhiều kiểu khác nhau của trường Mỹ nghệ Biên Hòa, đã thu hút rất nhiều khách tham quan và được ban tổ chức khen ngợi và tặng huy chương vàng.
Thành công hội chợ lần 2 này nhờ vào các loại bình trang trí hoa văn, nét chạm khắc hơi sâu (chìm) tạo cảm giác mạnh về sự chia cắt trên phông (nền) cũng tráng men phù hợp với đề tài trang trí, hơn nữa tượng gốm về đề tài phương Đông làm lạ mắt dân thành phố Paris. Về sau nhà trường phát huy hai thế mạnh nói trên, tiếp tục nghiên cứu sản xuất ra các mẫu mã mới, nhiều chủng loại về dáng và các đề tài trang trí để hàng năm trưng bày triển lãm tại Hội Mỹ thuật Sài Gòn để giới thiệu sản phẩm.
Thấy làm ăn được, nhà trường giải thể lớp hoàn thiện, thành lập Hợp tác xã (HTX) Mỹ nghệ Biên Hòa vào năm 1933. HTX này thu nhận tất cả các học sinh tốt nghiệp để làm thợ mỹ nghệ. Chính HTX này phổ biến gốm mỹ nghệ ra xã hội một cách nhanh chóng và hiệu quả. Cùng với việc thành lập HTX, nhà trường cho xây dựng một phòng trưng bày để giới thiệu sản phẩm và bán hàng.
Qua 3 kỳ tham dự hội chợ triển lãm, nhà trường đã nổi danh trong và ngoài nước. Các hội chợ triển lãm sau này đều mời nhà trường tham gia: Indonesia (1934), Nhật và Pháp (1937), Réunion và Hà Nội (1938), Sài Gòn (1942),…
Một số nhận xét về gốm Biên Hòa thời Balick
Học giả Vương Hồng Sển (1902 – 1996) trong cuốn sách Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (Tác giả xuất bản tại Sài Gòn năm 1971), trang 87 – 88 có đoạn viết: “Hiện nay trong xứ có một trường dạy nghề làm đồ gốm ở Biên Hòa, và kể luôn ở Đà Lạt, ở Bình Dương và ở Lái Thiêu, Thị Nghè và Biên Hòa, có trên bốn chục lò sản xuất đồ gốm, đồ sành, có lò Thành Lễ (Bình Dương) từng gửi đồ chế tạo ra bán ngoại quốc, nhưng nói về phẩm, thì đồ gốm, đồ sành ngày nay còn thua đồ thời Pháp thuộc của trường Mỹ nghệ Biên Hòa do Tây điều khiển, không biết vì trường khó mà nghề hay, hay là vì xưa kia vật liệu dồi dào, thợ thầy cố gắng, còn nay vì chiến tranh, không đủ vật liệu, thêm trả công thợ ít”.
Trong cuốn sách “Tạp bút năm Quý Dậu 1993 – di cảo” (Nhà xuất bản Trẻ in năm 2013), bài “Nhắc lại những trường dạy nghề đời Tây tôi đã biết”, trang 212, Vương Hồng Sển viết: “trường dạy làm đồ gốm ở Biên Hòa, theo tôi biết, một đoạn lối 1950 – 1960, lò gốm Biên Hòa sản xuất gốm kém thua lúc Pháp còn ở đây, vì phải nói Pháp dạy rất kỹ và rất khó tính, sinh viên làm món chưa vừa ý, họ đều bỏ không cho nung, còn ngày nay, tôi chịu thua và không biết được… Về gốm mặc dù tôi chơi gốm cổ, nhưng tôi không sắm gốm Biên Hòa, chỉ có đôi gốm do đời Tây để lại, và nay rất khó kiếm. Nay gốm mới tôi không quan tâm nữa”.
Còn nhà khảo cứu Lương Văn Lựu trong cuốn Biên Hòa sử lược in năm 1960 nhận xét: “Mỹ phẩm của Trường Mỹ nghệ Biên Hòa được các nhà ngoại giao quốc tế lưu ý và các mỹ thuật gia Âu Á ưa thích nhất là đồ gốm. Dù có màu sắc, nhưng vẫn giản dị đơn sơ, không lòe loẹt, chóa mắt, trầm tỉnh, nhu mì, có vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, vỉnh viễn, thuần túy Á Đông, dung hòa kim cổ. Nhờ vậy mà khi đặt một mỹ phẩm đồ gốm Biên Hòa vào trong phòng các tòa nhà, bất kì ở địa điểm nào, cũng đẹp, càng nhìn càng thấy mỹ phẩm huy hoàng, căn phòng lộng lạc, nghĩa là nó không kén chọn một nơi riêng biệt nào để bày trí nó, ở chỗ nào nó cũng vẫn đẹp một cách thùy mị. Do đó mà khách Âu Mỹ càng ngày càng quý trọng mỹ phẩm trường Biên Hòa”.
Trong bản “Sử lược Trường Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai” năm 1993 của ông hiệu trưởng Trương Minh Tú có đoạn viết: “Đặc điểm vẻ đẹp của gốm Trường Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai là sự kết hợp những yếu tố đẹp của nghệ thuật điêu khắc với những yếu tố đẹp trong hội họa. Gốm trường không phải là gốm nhẹ độ màu sắc như chúng ta thường gặp trên thị trường hiện nay. Gốm Biên Hòa truyền thống là gốm cao độ (1280°C), đặc biệt men xanh đồng trổ hết sức đa dạng, màu men tạo cảm giác đây là sản phẩm cổ từ thời Lý Trần được đào từ dưới đất lên. Vẻ đẹp của gốm Biên Hòa không những hấp dẫn người chơi bởi màu sắc và hòa sắc, mà bởi tính giản dị đơn sắc có chiều sâu đậm nhạt, lung linh ẩn hiện, đó là những hằng số mang vẻ đẹp rất độc đáo, rất riêng của gốm mỹ nghệ Biên Hòa”.
Nguyễn Minh Anh