Trong những ngày Hà Nội vào độ cuối thu, Blue Space Gallery kết hợp với Manzi Art Space đã tổ chức một sự kiện văn hóa đặc biệt: triển lãm “Tiếng hót” kỷ niệm 90 năm ngày sinh cố họa sĩ Trần Trung Tín.

Tròn mười năm kể từ “Bi kịch lạc quan” tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, khán giả Thủ đô mới lại có dịp chiêm ngưỡng các tác phẩm của người nghệ sĩ tài hoa Trần Trung Tín, người được coi là tên tuổi lớn nhất của nghệ thuật biểu hiện nước nhà.
Dẫu mang tên gọi thơ mộng “Tiếng hót”, các tác phẩm được giới thiệu trong triển lãm lần này lại chất chứa cảm xúc u hoài. Hầu hết được vẽ vào những năm 70 thế kỷ trước – khi cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ đương hồi ác liệt, sáng tác của Trần Trung Tín phản ánh nỗi buồn, sự bơ vơ và mất mát. Quyết định không đi sơ tán mà trụ lại Thủ đô tạo cho họa sĩ góc nhìn ưu tư nhưng cũng đầy tính nhân văn về hiện thực khói lửa.
Đó là những “Không đề 1” (1972), “Báo động” (1972), “Không đề 2” (1972) có gam màu trầm tối, hình tượng tan tác, bất định, gợi cảm giác tang thương trĩu nặng. Đặc biệt với “Không đề 13” (1971), họa sĩ tái hiện một khung cửa sổ trông ra bầu trời đục màu cam đỏ với các vệt cọ đen, xám mạnh mẽ, nhắc nhớ bầu trời chiến tranh tối sập vì bụi bom, máu lửa.
Cũng trong triển lãm lần này, các tác phẩm trừu tượng giai đoạn đầu của Trần Trung Tín lần đầu ra mắt khán giả. Tiếng nói của thế giới hiện thực mờ nhòa, khiêm nhường, lặng lẽ, nhường không gian cho tiếng nói của thế giới tình cảm. Trần Trung Tín dạo chơi giữa miên man màu sắc: lúc trầm ngâm với xám (“Không đề 7” – 1971, “Không đề 8” – 1969), lúc lạnh lùng với lam (“Không đề 9”, “Không đề 10” – 1972), lúc lại ngộ nghĩnh rực rỡ (“Không đề 5” – 1973, “Không đề 6” – 1972, “Không đề 11” – 1978).
Khác với chuỗi “Bi kịch lạc quan” được giới thiệu mười năm trước chưng cất những khắc khoải chín muồi, những đau đáu thiết tha, các tác phẩm của “Tiếng hót” lần này cất chứa một tinh thần ấm áp hơn, nhẹ nhõm hơn, mở ra nhiều hơn mơ màng hy vọng.

Trong “Tiếng hót”, sức lay động thổn thức nhất được khơi lên từ các bức phỏng thực về sinh hoạt đời thường, những sự vật bình dị thân thương. Trần Trung Tín vẽ về cái đẹp, về niềm vui nảy nở trong cuộc sống thời chiến. Cái đẹp ấy, niềm vui ấy không thoát ly hiện thực, không du đãng nơi mây trời viển vông, mà luôn ngậm buồn vì bị che lấp trong khói bom bão đạn. “Con bò của tôi” (1975) gồng căng lưng, cúi đầu, có đôi mắt đen tuyền vừa thảng thốt hãi hùng, vừa tuyệt vọng trống rỗng. “Đình Hà Nội” (1973) sắc màu trang nhã, dịu mát, mờ ảo như được vẽ ra từ nhạt nhòa ký ức bình yên. “Vệ nữ cam” (1972) giằng xé niềm yêu giản dị vẻ đẹp đầy đặn, đầm ấm của người phụ nữ giữa các nét cọ méo mó, mảng màu rực gai người…
Đáng chú ý hơn cả là các tranh Trần Trung Tín họa chân dung thiếu nữ Hà Nội, tranh chớp cảnh sinh hoạt của người Hà Nội buổi sáng sớm. Màu sắc đã ửng lên, tươi nhất, vui nhất so với loạt tranh trưng bày tại triển lãm lần này; nhưng ánh mắt, nét mặt nhân vật vẫn nguyên vẻ bàng hoàng, bất lực, chứa chan nỗi buồn. Các tác phẩm ấy là sự thể hiện “nửa hiện thực” về số phận con người mong manh giữa biến cố lịch sử khi niềm hạnh phúc, dẫu đã được nỗ lực vun vén, vẫn bé nhỏ tội nghiệp.
Nhưng không vì lẽ đó mà tranh Trần Trung Tín nhuốm cảm thức bi quan. Trái lại, niềm hy vọng, sự lạc quan, tình yêu cuộc sống vẫn luôn âm thầm ngân rung giữa những nét cọ dạt dào tình cảm, những sắc màu thấm đẫm chất thơ. Trên trang giấy của họa sĩ, cái Thiện lên tiếng nhỏ nhẹ nhưng kiên quyết: giống như đạn bom không ngăn được tiếng chim, đêm dài không ngăn được mong ngóng bình minh của con người.
