Để có một con đường hội họa: Làm một con đường xa lộ người ta phải vạch hướng mở đường, đầu tư xây dựng, thậm chí phải vạt núi, vượt sông, thông cầu để đến đích. Trong nghệ thuật cũng tương tự, mỗi họa sĩ muốn thành danh phải vượt khó, tự mở cho mình một con đường đến tháp ngà nghệ thuật. Hội họa luôn phong phú, đa dạng. Nó không hề có khuôn mẫu, mà chỉ có những mẫu mực đỉnh cao do các tài danh sáng tạo nên. Dấn thân vào nghệ thuật phải say mê, phải học, phải rèn luyện, phải bản lĩnh để vươn lên, xác lập cho mình một phong cách. Cái mới thì luôn khó và bí ẩn. Khó thì phải lao động bền bỉ, bí ẩn thì phải tìm tòi sáng tạo. Cái mới không có sẵn, phải khổ công, gắn bó với hiện thực mới hy vọng phát lộ ra.
Năng khiếu là tố chất bản năng quan trọng, nhưng không phải bất cứ năng khiếu nào cũng trở thành tài năng. Yêu thích cũng chưa đủ. Khi ước vọng tràn đầy thì đời sống lại khó khăn, liệu có vượt qua. Hội họa không thể thiếu phương tiện, đòi hỏi phải đầu tư chất liệu, vật liệu. Vẽ nhiều cũng cần phải biết chọn lọc, năng khiếu mới trở thành tài năng. Địa vị chức quyền không thay thế tài năng nghệ thuật. Niềm say mê và quyết tâm sẽ chắp cánh cho sáng tạo để trải lòng cho nghệ thuật. Cái đích nghệ thuật là tác phẩm đích thực. Những ý nghĩ dung dị đó chợt thoáng hiện trong tôi khi tiếp xúc họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng tại gác vẽ và xem tác phẩm trong ba tầng nhà của anh.
Sau các chuyến tôi đi Nhật Bản giao lưu tiếp xúc Mỹ thuật và thuyết trình Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam tại các Bảo tàng Mỹ thuật ở Tokyo, Bảo tàng Mỹ thuật Châu Á Thái Bình Dương (Fukuoka) đó là lần đầu tiên tiếng nói học thuật về Mỹ thuật Việt Nam ra thế giới. Thì tháng 8-2008, họa sỹ sơn mài Maeda là chuyên gia curator Bảo tàng Mỹ thuật Okinawa, và sưu tập gia mỹ thuật Yto Toyokichi Nhật Bản lại đến Việt Nam làm việc và trực tiếp mời tôi sang Nhật, tiếp tục thuyết trình về: “Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam và tranh sơn mài”. Khi bạn còn ở Việt Nam, tôi đưa đi xem Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, thăm các họa sĩ trước kia đã đưa Mỹ thuật Đông Dương sang Nhật triển lãm (1942). Trong dịp này, một kỷ niệm khó quên khi tôi dẫn đoàn họa sĩ Maeda và Yto Toyokichi (Nhật Bản) cùng đi còn có nhà sưu tập Nguyễn Mạnh Phúc, lên Phú Thọ thăm đất Tổ vua Hùng và thăm Hội Văn học Nghệ thuật Phú Thọ (VHNT) mà họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng làm Chủ tịch. Sau đó, họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng dẫn đoàn về xem tranh của anh tại nhà riêng bên cạnh Hội. Với Đỗ Ngọc Dũng tôi đã có ấn tượng từ triển lãm “Sắc màu Trung du” (9-2005) của anh tại Hà Nội. Các gian đại sảnh của ba tầng nhà, Đỗ Ngọc Dũng dành phần lớn để bày tranh. Nó đầy ắp sắc màu, hình thể, chứa đựng những tìm tòi, trăn trở của một họa sĩ đích thực. Các bạn Nhật Maeda và Yto Toyokichi đã bày tỏ sự khen ngợi, đánh giá cao về thẩm mỹ, ý tưởng sáng tác và giá trị nghệ thuật. Bạn rất mến mộ về sự lao động mà anh đã dành tài năng, tâm huyết cho quê hương. Vùng đất lịch sử, với Đền Hùng mà các bạn Nhật được vinh dự đến thăm. Sau đó còn qua thăm phòng tranh sưu tập của Nguyễn Mạnh Phúc để biết thêm về mỹ thuật Việt Nam. Khi tôi trở lại Nhật: Những ý kiến của bạn về Đỗ Ngọc Dũng ở Phú Thọ, được nhắc lại với sự trân trọng không hề khách sáo: “Xem tranh Đỗ Ngọc Dũng đồng nghiệp và tôi như bị nhiễm một vị men say nồng, kích thích sự ham vẽ, sự làm việc rất đáng trân trọng. Không chỉ ở những tìm tòi, khám phá và cả ở số lượng tác phẩm”.
Tranh cổ động về Bác Hồ
Sinh năm 1960 trên quê hương Phú Thọ, Đỗ Ngọc Dũng tốt nghiệp Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Vĩnh Phú (1978-1981), rồi công tác tại Ty Văn hóa Vĩnh Phú. Vẽ nhiều tranh cổ động phục vụ các nhiệm vụ chính trị. Đặc biệt anh tham dự cuộc thi tranh Áp phích chính trị quốc tế chủ đề: “Vì hòa bình sự sống, chống chiến tranh hạt nhân” (1984) tổ chức tại Liên Xô, Tiệp Khắc được tặng thưởng kèm bằng Dip lôm. Đây là điểm khích lệ đối với Đỗ Ngọc Dũng. Năm 1985 anh thi đỗ vào trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội và tốt nghiệp với tấm bằng giỏi. Ra trường, anh xin chuyển từ Ty Văn hóa về Hội VHNT để hy vọng được tiếp xúc nhiều hơn với nghệ thuật và giới văn nghệ sĩ. Cuộc sống vất vả mà không nản. Đi vẽ pano quảng cáo, kể biển để lấy tiền mua sắm họa phẩm, sơn dầu, đóng khung toan nhiều kích cỡ để vẽ. Lấy sáng tạo tác phẩm hội họa làm đích chứ không phải thiết kế công nghiệp. Anh đã có nhiều tranh sơn dầu với những tìm tòi có mặt tại các triển lãm. Năm 1992 được kết nạp vào Hội Mỹ thuật Việt Nam. Từ năm 2000 đến nay, Đỗ Ngọc Dũng được bầu làm Chủ tịch Hội VHNT Phú Thọ. Anh đã dành nhiều thời gian lo cho ngôi nhà Văn nghệ Phú Thọ. Góp phần thúc đẩy các hoạt động VHNT miền đất Tổ và đưa Hội trở thành một Hội mạnh của toàn quốc. Được anh em văn nghệ sĩ tín nhiệm, được lãnh đạo Trung ương và tỉnh tin cậy, được giới họa sĩ biết đến. Anh được tặng Giải thưởng VHNT Hùng Vương, phần thưởng cao quý nhất của UBND tỉnh Phú Thọ dành cho những văn nghệ sĩ có tác phẩm xuất sắc.
Là một họa sĩ gắn bó với Hội VHNT địa phương luôn có nhiều thử thách ở phía trước. Động lực quan trọng là mỗi văn nghệ sĩ phải khẳng định được vai trò của mình trong đời sống chính trị – xã hội – nghề nghiệp một cách thiết thực bằng tác phẩm và hoạt động phong trào. Những cố gắng thay đổi tư duy nghệ thuật, và sự chuyên nghiệp đang diễn ra nhọc nhằn. Điều kiện hoạt động của các họa sĩ địa phương có khoảng cách so với các họa sĩ Thủ đô về nghệ thuật. Thông tin mỹ thuật trong nước và thế giới chậm và hạn chế. Thiếu môi trường học thuật, nên ít có va đập của phê bình mỹ thuật. Sự đơn lặng dễ làm cho sáng tác trì trệ và an phận. Nói vậy chả lẽ bất cứ họa sĩ nào ở Thủ đô đều giỏi? Và họa sĩ ở địa phương đều kém thì không phải. Người họa sĩ làm quản lý, có chức vụ dễ ít vẽ, và dẫn đến bỏ vẽ. Bởi công việc chiếm hết thời gian hành chính, chi phối tâm trí và xúc cảm nghệ thuật. Nhưng với Đỗ Ngọc Dũng, công tác lãnh đạo Hội luôn hoàn thành tốt mà vẫn không quên sáng tác. Anh đã tranh thủ thời gian mọi lúc để vẽ, để tư duy nghệ thuật, và chịu khó tìm hiểu học hỏi nghệ thuật, giao lưu với giới Văn nghệ sĩ cả nước, đọc nhiều sách báo, văn chương, nghệ thuật. Học hiểu nhiều để lãnh đạo Hội với nhiều lĩnh vực khác nhau. Xác định cho mình một con đường hội họa. Các thứ 7, chủ nhật thường đóng cửa, tắt điện thoại, từ chối các cuộc vui vô bổ để thả mình say xưa bên giá vẽ, luôn cảm thấy thiếu thời gian, nhiều khi vẽ cả buổi tối. Trên căn phòng ở tầng thượng, Đỗ Ngọc Dũng đã lao động nghiêm túc, thể hiện ý chí vươn lên. Khối lượng tác phẩm của anh đã chứng minh sự yêu say nghệ thuật. Như anh nói: “Sáng tác để làm gương, để nói được hội viên, để hoạt động Hội thêm vững. Nghệ thuật phải đem lại giá trị đích thực”. Triển lãm cá nhân (9-2005) tại Hà Nội, với 50 tác phẩm sơn dầu Đỗ Ngọc Dũng được đồng nghiệp ở Thủ đô ngưỡng mộ chúc mừng. Nhiều báo đã viết về triển lãm này. Đó là sự ghi nhận về lao động nghệ thuật của anh.

Hoạ sĩ – Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Văn Chiến và hoạ sĩ Đỗ Ngọc Dũng tại triển lãm mỹ thuật KV3 năm 2022
Con đường hội họa của anh đang tiếp tục với những sáng tác mới. Triển lãm cá nhân lần thứ 2 này tháng 6 năm 2012 tại 16, Ngô Quyền, Hà Nội) 52 bức tranh sơn dầu khổ lớn với những tìm tòi sáng tạo mới, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy nghệ thuật hiện đại của Đỗ Ngọc Dũng. Niềm đam mê, khát khao cái đẹp tạo hình, mà anh vẫn một mực dành tình cảm với quê hương vùng đất Tổ – Nơi cội nguồn dân tộc. Những chủ đề về: Miền núi rừng Trung du Phú Thọ, với cuộc sống con người trong lao động sản xuất, với các thiếu nữ dân tộc, nữ sinh và trẻ em. Hiện tại cùng hoài niệm nét xưa trong lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa vùng đất Tổ. Đặc biệt chủ đề về lịch sử, chiến tranh cách mạng, những trăn trở về môi trường sống đang từng ngày bị hủy hoại, những thế sự với hiện thực tâm trạng là những đề tài chính trong triển lãm lần này.
Nghệ thuật với những sáng tác mới: Tranh của Đỗ Ngọc Dũng đã có những gặt hái ở sơn dầu. Từ bức: “Một dáng chiều” bút pháp tả thực. Hình tượng bà cụ nhà quê, khăn mỏ quạ, áo bông sờn cũ, với cái nón mê, lưng còng, chống gậy. Bàn chân khoằm ngón Giao Chỉ, đi chập choạng trong chiều đông giá lạnh. Nội dung trắc ẩn, liên tưởng: Một dáng chiều, dáng mẹ như chiều tà sắp tắt nắng, toát lên niềm thương cảm gợi cho người xem thấy có hình bóng mẹ mình. Người mẹ vất vả tảo tần đã nuôi lớn ta từ thuở khốn khó. Đồng thời cũng nhắc ai đó còn chưa quan tâm đến mẹ, đến người sinh ra mình,… Bức tranh như gửi một thông điệp về đạo đức xã hội trong cơ chế thị trường. Nhiều nhà thơ khi xem tác phẩm này đã xúc động làm thơ tặng tác giả. Có họa sĩ còn nói “chỉ cần một tranh này đã khẳng định được vị trí của Dũng trong giới Mỹ thuật”. Nó vẫn còn dư âm ấn tượng Đỗ Ngọc Dũng với hiện thực tâm trạng. Anh vẫn tiếp tục những suy tư trong những tác phẩm mới: “Thân phận một con người” (sd 80×80); “Môi trường và tiếng than của đại ngàn” (sd 180×150) về rừng cây bị phá, môi trường sống đang bị hủy hoại (Giải A TLKV III, Tây Bắc – Việt Bắc – 2009). Nhìn vào tác phẩm khối cây rừng đan xen thành một cây đại thụ như một cơ thể sống đang quằn quại, kêu than khi môi trường sống của đại ngàn đang bị con người hủy hoại. Rồi bức “Nhớ rừng” (sd 140×120) bằng lối tả thực mới về rừng bị con người tàn phá chỉ còn lại mấy gốc cây… Chân dung bà mẹ vùng cao khắc khổ, ẩn hiện trong gốc cây nét mặt buồn xa xăm khi không còn rừng trong cuộc sống người miền núi hôm nay. Rồi tác phẩm “Nguồn nước chết”, bằng bút pháp tổng hợp, tạo ganh xốp và mịn gợi tả về nước thải công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nước, những bộ xương cá đã nói lên tất cả… Hay biến đổi khí hậu (sd 140×140) nói về động đất sóng thần ở Nhật Bản hoặc “Thảm họa 11-9”, tháp đôi của nước Mỹ bị không lực khủng bố phá hủy chấn động thế giới. “Ký ức chiến tranh” hai bức (sd 140×120) và (sd 150×150) dùng các mảng, nhát và màu sắc làm biểu cảm, ẩn trìu tượng mà gợi về cuộc sống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Các tác phẩm đó phản ánh tâm trạng từ cá nhân một con người đến môi trường, rộng ra thế cuộc. Lối chuyển hóa các mảng màu trầm trung tính, kết hợp màu đối chọi, đan xen theo lối biến điệu trang trí, để lại những suy ngẫm với người xem về nội dung mà tác giả đề cập là những cảnh tỉnh và lên án tội ác chiến tranh, khủng bố,… Đồng thời nó còn thể hiện thế giới quan, trách nhiệm của một nghệ sĩ với đời sống xã hội.
Đỗ Ngọc Dũng còn có nhiều bức vẽ thể hiện phong cảnh thiên nhiên, nhịp sống lao động của con người, đem lại những cảm nhận mới, với các cách thể hiện khác nhau. Các tranh Đền Hùng cổ kính u trầm, tôn nghiêm với nét xưa, dáng cổ nơi thờ tự các vua Hùng dựng nước. “Sương sớm”, “Rừng cọ”, “Chiều tím”, “Về miền Trung du”, “Đêm bình yên” (sd 90×70) phản ánh về sinh hoạt vùng sông nước ngã ba sông, vẽ theo lối thực, chân phương. Ta lại gặp các bức “Một góc quê hương” (sd 135×115), “Nắng trung du” thể hiện những đám cọ vươn cao lung linh trong nắng vàng, xa là màu lúa vàng có những người gánh lúa về. Các mảng lá cọ, mảng ruộng bậc thang, cánh diều được dụng ý “gấp nếp” theo cách thể hiện mới. Các bước “Nắng gió vùng cao” (180×150) gợi tả cảnh đồi núi cây cỏ vùng cao trong nắng gió, hình ảnh đầu con ngựa nhọc nhằn nói lên nỗi vất vả của người vùng cao, rồi “Góc chợ vùng cao” (170×120), “Đàn ông vùng cao” thể hiện thiên nhiên, sinh hoạt vùng Tây Bắc, Việt Bắc. Có thể nói, đây là những tác phẩm đẹp, thể hiện bút pháp đơn giản, phóng túng nhưng đầy hiệu quả tạo hình.
Khả năng sáng tạo với những tìm tòi làm phong phú đề tài, đa dạng cách thể hiện tranh. Những tác phẩm về đề tài lao động như “Mùa vàng” (sd 140×120) với cảnh phụ nữ dân tộc đeo gùi trên nương ngô; “Nốt nhạc đồng quê” (sd 90×70) dung dị với cảnh bắt tôm, bắt ốc trong đầm nước của các thôn nữ, với những chiếc dậm có cán dài như nốt nhạc, tác giả muốn luyến láy bằng hình tượng tạo hình thay âm thanh. Các bức “Biển cá” (sd 135×110) và “Sinh tồn” (sd 100×80) cùng lối thể hiện trong cách chia mảng, kết hợp hình với thay đổi màu theo lối trang trí. Những hình cá lớn và những chú cá bé của quy luật khắc nghiệt. “Ngược dòng” (sd 140×140) nói về sự vượt lên của bầy cá với cuộc sống bầy đàn mùa sinh nở. Đặc biệt là bức “Quy luật nghiệt ngã” diễn tả thực những chú cá nằm phơi trên thớt, bên cạnh là con dao sắc lẹm khiến người xem liên tưởng đến một quy luật nghiệt ngã, đầy triết lý. Ở đề tài trẻ em, cưỡi trâu thổi sáo trong “Đồng quê” (sd 100×80), thả diều trong “Chiều hè” (sd135x110), “Đường làng” (sd 120×100), “Em bé và con bò” (sd 100×80), “Hồn nhiên” (sd 100×80), “Một chiều hè” đều cho thấy phong phú trong cách thể hiện, nói lên sinh hoạt của trẻ em ở nông thôn.
Đỗ Ngọc Dũng-“ Nhà đồi trung du “ – Sơn dầu 100×80
Bút pháp linh hoạt thể hiện ở đề tài Lịch sử và Lễ hội truyền thống. Nếu bức “Điệu múa Mường” (140×120), bức “Dấu tích Thăng Long” bằng lối vẽ tả thực thì ở bức “Nét xưa” (sd 150×150) lại tổng hòa nhiều hình tượng của ngày hội, bố cục trong các mảng vuông. Trọng tâm là những nam nữ gõ trống đồng, chung quanh là các sinh hoạt giã gạo, múa, chim Lạc, chèo thuyền khai thác từ các hình chạm trên trống đồng (Tác phẩm này đang được lưu trữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam). Tương tự, bức “Âm vang trống đồng” (sd 180×150) cũng lấy nội dung lễ hội. Giữa tranh là những người gõ trống đồng, xung quanh với những thay đổi các mảng màu và cảnh thiếu nữ dân tộc múa, hát. Khai thác những nét đẹp văn hóa truyền thống lễ hội vùng đất Tổ quê hương. Lối tìm tòi, thể hiện với cách phân chia mảng trang trí, trên đó đồng hiện nhiều cảnh tượng, cấu thành nội dung rộng theo các chủ đề khác nhau. Trên mặt tranh được bố cục các ô (dạng gần vuông hay hình chữ nhật, hoặc các đường cong, đường lượn) với nhấn tiếp giáp các mảng màu và phân chia sắc độ trên những hình người, những cảnh sinh hoạt theo nội dung chọn lựa, tạo cái riêng cho tác phẩm. Sự phối hợp các màu tương phản dựa trên điểm tựa là đen và trắng làm trung hòa, phối màu lấy nét đen và khoảng trắng làm cầu nối và phân định hình thể thì cho dù là màu tươi đến đâu cũng ăn nhập. Cũng như sử dụng không gian ước lệ là ưu điểm trong dòng tranh dân gian, Đỗ Ngọc Dũng đã biết kế thừa.
Phản ánh về đề tài sinh hoạt phụ nữ, “Chị chị em em” (sd 180×150), “Giờ giải lao” (180×150), “Gặp gỡ” (100×80) với các chị em thiếu nữ gặp nhau mùa xuân, “Khúc hát dân ca” (sd 140×120), “Nhịp trống đồng” (sd 135×115) đều thể hiện các thiếu nữ với váy dài trang phục dân tộc trong ngày hội mùa xuân, với tuổi thanh xuân hồn nhiên, xinh tươi. Các bức về thiếu nữ trung du như “Thiếu nữ Mường” (sd 100×100) gánh bương nước, “Hạnh phúc” (sd 160×140) trong cảnh đầm ấm hòa hợp gia đình ngưỡng vọng vào đứa con. Các tranh lấy hình và mảng làm chủ đạo, kết hợp với màu thích ứng để biểu cảm nghệ thuật, có bức lại màu đối chọi tương phản thể hiện sắc màu trang phục người vùng cao. Các thiếu nữ trong cảnh sắc thiên nhiên như “Bên dòng suối” (sd 160×135) với những thiếu nữ Mường bên nhau soi gương chải tóc bên bờ suối; “Các cô gái tắm trăng” (sd 180×150) với những người thiếu nữ váy dài, vai trần ngang ngực, các dáng hình thon thả dưới ánh trăng non bên hồ tắm trong phong cảnh thiên nhiên thanh bình. Đề tài nữ sinh với bức “Những nữ sinh” (sd 110×110) với áo dài trắng bên sân trường, hình dáng sinh động, đượm chất trữ tình phóng khoáng. Một bức về đề tài thiếu nữ khỏa thân như “Những bông hoa” (sd 150×150) đồng hiện các dáng vẻ nữ trong các mảng bố cục phân chia. Bức “Dân tộc và hiện đại” (sd 120×160), “Tắm trăng” (sd 120×140) thể hiện các cô thiếu nữ mới lớn ngồi khỏa thân tắm với hòa sắc xanh biển làm chủ đạo. Lại ở một bức khác, “Thiếu nữ thời @” diễn tả các thiếu nữ mới lớn vui đùa xốn xang trong nắng sớm,…
Trong những năm đổi mới, hội nhập, có nhiều họa sĩ trẻ tìm tòi, sáng tác, có những thành công, song cũng có nhiều tác giả bế tắc. Một số họa sĩ có khả năng nhưng lại chạy theo thị hiếu tầm thường, chỉ xoay quanh các đề tài, đáp ứng thị hiếu “mua bán tranh”. Một số khác lại đẻ ra những tác phẩm kỳ quặc, hoặc có những trường hợp đốt cháy giai đoạn, bỏ qua công phu nghề nghiệp để đi tắt, chạy theo học lỏm các chủ nghĩa hiện đại. Còn ở Đỗ Ngọc Dũng, mặc dù bận rộn trên cương vị là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Liên hiệp VHNT tỉnh Phú Thọ, nhưng không quên sáng tác có chủ kiến, từ quyết tâm học đại học, đầu tư sáng tác, tích lũy thực tế, chọn cho mình một con đường và cố gắng quyết tâm theo đuổi, thể hiện bằng chính năng lực của mình, chịu khó sáng tác có hàng trăm tác phẩm khổ lớn. Anh đã có các triển lãm cá nhân tại Thủ đô Hà Nội được chú ý. Hàng năm đều có tác phẩm tham dự triển lãm và có những giải thưởng, được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, bộ sưu tập của Hội Mỹ thuật Việt Nam và sưu tập tư nhân trong và ngoài nước. Đỗ Ngọc Dũng đã là một trong những họa sĩ nổi trội của khu vực Tây Bắc – Việt Bắc được giới Mỹ thuật Việt Nam thừa nhận. Triển lãm lần này với chủ đề “Khoảng lặng” như anh nói “Khoảng lặng là những khoảnh khắc của không gian, thời gian, sự kiện lắng đọng trong tôi, để từ đó được trải lòng mình bằng ngôn ngữ hội họa”. Song, dù thành công đến đâu thì đây là sự ghi nhận về lao động sáng tạo nghệ thuật đầy vinh quang và nhọc nhằn trên con đường mà anh đã chọn. Con đường ấy là không có điểm dừng. Hy vọng anh sẽ có thêm nhiều tác phẩm đẹp, giàu giá trị nhân văn hơn nữa để xứng danh là một họa sĩ thực sự của mỹ thuật Việt Nam, đang sáng tác trên quê hương đất Tổ Hùng Vương.
Hoạ sĩ – Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Văn Chiến