Lụa không chỉ là một trong những chất liệu truyền thống trong hội họa Việt Nam đã có từ lâu đời[1], mà còn mang trong mình những giá trị sâu sắc, với bề dày lịch sử, tranh lụa đã trở thành biểu tượng của sự tinh tế và nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy các tác phẩm chất liệu này thường được vẽ chân dung trong hoàng gia, cung đình là chính yếu, những tác phẩm này không chỉ phản ánh sự sang trọng của cuộc sống quý tộc mà còn ngầm được xem như quốc họa của đất nước. Tên của chất liệu cho thấy sự mền mại, nhẹ nhàng, trang nhã.
Họa sĩ Lê Thị Lựu (1911-1988)
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy tranh lụa có khởi đầu từ những năm 30 của thế kỷ 20, đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, nhưng các tác phẩm tranh lụa cổ được phát hiện sớm nhất như “Chân dung Nguyễn Trãi”[2], “Phùng Khắc Khoan”, “Trịnh Đình Kiên” khoảng thế kỷ 18-19[3]. Các tác phẩm tiêu biểu này có niên đại khá muộn, thường do các họa sĩ trong cung đình vẽ, thể hiện sự kết nối giữa nghệ thuật và lịch sử.
Năm 1925, trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập, mở ra một trang mới cho hội họa Việt Nam, nơi lụa trở thành một phương tiện sáng tác quan trọng. Lúc bấy giờ, các họa sĩ đã thực hành chất liệu này khởi đầu từ họa sĩ Nguyễn Phan Chánh[4], Lê Văn Đệ, Lương Xuân Nhị, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tiến Chung, Mai Thứ…
Trong số những họa sĩ của dòng tranh lụa, Lê Thị Lựu là một trong những họa sĩ tiêu biểu, bà tốt nghiệp thủ khoa khóa III trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, kế thừa và phát triển nghệ thuật hiện đại. Việc sử dụng lụa như một phương tiện sáng tạo đặc biệt, những tác phẩm của bà không chỉ mang tính biểu tượng mà còn thể hiện sự giao thoa độc đáo giữa truyền thống và hiện đại, góp phần định hình tạo nên dấu ấn đặc biệt của tranh lụa trong văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Với sự kết hợp giữ kỹ thuật và cảm xúc, tranh lụa đã khẳng định vị thế của mình trong lòng người yêu nghệ thuật.
Họa sĩ Lê Thị Lựu (1911-1988) sinh ra tại làng Thổ Khối, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh[5]. Sinh ra trong một gia đình theo Tây học, ngay từ cấp sơ học, bà được biết đến là nữ họa sĩ đầu tiên của trường. Lê Thị Lựu đã hình thành niềm yêu thích với hội họa và quyết định thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Năm 1925: Đậu bằng Sơ học Yếu lược tại Hà Nội
Năm 1926: Theo học lớp dự bị tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Năm 1927: Đậu kỳ thi tuyển vào khóa III trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Năm 1932: Tốt nghiệp thủ khoa khóa III trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Năm 1933: Được bổ nhiệm giảng dạy các trường Bưởi, Trường Trung học bảo hộ[6], Trường Nữ Sư Phạm[7],… năm 1940 nữ họa sĩ cùng chồng là Ngô Thế Tân sang Pháp[8]…
Lê Thị Lựu – Sơn nữ, lụa, 41 x 33 cm, 1960-1970, khoảng 1980.
(Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh)
Họa sĩ Lê Thị Lựu cùng gia đình đã di cư sang Pháp từ năm 1940, vì vậy hầu hết tác phẩm của bà đa phần đều được lưu giữ ở Pháp. Năm 2018, ông Lê Tất Luyện và bà Thụy Khuê quyết định đưa toàn bộ sưu tập các tác phẩm của họa sĩ Lê Thị Lựu mà ông bà lưu giữ về tặng bảo tàng tại Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh vinh dự được chọn làm nơi bảo quản, trưng bày sưu tập 29 tác phẩm nghệ thuật và nhiều tư liệu sáng tác, tư liệu cuộc đời của họa sĩ Lê Thị Lựu. Bộ sưu tập được chia làm hai đợt tiếp nhận vào ngày 6/6/2018 và ngày 19/10/2018, tại Paris.
Đợt 1 gồm 18 tác phẩm chất liệu lụa, sơn dầu và hai bản sao chụp tác phẩm của họa sĩ Lê Thị Lựu do ông Ngô Thế Tân, chồng họa sĩ Lê Thị Lựu trao cho bà Thụy Khuê giữ từ ngày 8/5/1994 cùng nhiều tư liệu hình ảnh, bản thảo thơ, bút tích của họa sĩ Lê Thị Lựu do bà Thụy Khuê lưu giữ[9]. Đợt 2 gồm 9 tác phẩm lụa, sơn dầu (8 tác phẩm do họa sĩ Lê Thị Lựu sáng tác và 1 tác phẩm do ông Ngô Thế Tân sáng tác) thuộc sưu tập riêng của ông bà Lê Tất Luyện – Thụy Khuê[10].
Trong những lần nhen nhóm tình yêu và niềm say mê với nghệ thuật, có lần nhìn qua bản phóng to hình một cô gái Lào của thầy từ sách, đến khi đi xem rạp hát, thấy một người chấm phá những nét nguệch ngoạc làm phông cho rạp hát, đứng gần không thấy nhưng nhìn xa mới đẹp, từ những giây phút ấy le lói trong lòng nữ họa sĩ một tình yêu lớn và dành cả cuộc đời mình cho nghệ thuật.
Lê Thị Lựu – Mẹ địu con, lụa bồi trên giấy, 41,2 x 33 cm,1960-1970.
(Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh)
Lê Thị Lựu – Chị dạy em viết chữ nho, lụa bồi trên giấy, 32,3×23,5 cm, 1946.
(Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh)
Thật vậy, nhà nghiên cứu mỹ thuật Thụy Khuê đã miêu tả nội dung các tác phẩm của bà Lựu với với hai từ “Ấn tượng”. Tranh lụa của Lựu mang màu sắc rực rỡ nhưng hài hòa, có chút Đông – Tây hòa hợp, thiên hướng mang đậm dấu ấn phương Đông, trong tranh của tác giả thường vẽ các đề tài chính yếu về “Thiếu” như: thiếu phụ, thiếu nữ, thiếu nhi…. Sự trong trẻo mềm mại của lụa làm cho người xem cảm giác dễ chịu. Việc sử dụng nước trong khi pha màu làm cho ranh giới màu sắc uyển chuyển với nhau, không phân biệt được đâu là sự khác biệt sắc cạnh của từng mảng màu, độ màu từ đậm đến nhạt, từ sáng đến tối uyển chuyển tạo nên một sự hài hòa tự nhiên trên nền lụa. Thông qua những đặc điểm này, tranh lụa của Lê Thị Lựu không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật mà còn là những biểu tượng văn hóa đậm chất Việt Nam, kết hợp một cách tinh tế giữa truyền thống và đương đại. Tranh lụa của bà nhìn gần gũi, những nét chấm phá phác họa bút pháp giống với sơn dầu, tuy nhiên khi quan sát kỹ, thấy rõ độ màu mỏng nhẹ vừa phải, bút pháp điêu luyện. Vẫn là lụa, vẫn trong, vẫn sáng, màu sắc tươi vui, lụa của Lựu là một phong cách hoàn toàn khác với Lê Phổ, Mai Trung Thứ và Vũ Cao Đàm, Lê Thị Kim Bạch hay nhiều họa sĩ vẽ lụa đương đại khác. Phong cách của bà mạnh mẽ nhưng thanh thoát, nhẹ nhàng, được cân đối hài hòa giữa bút pháp và chất liệu. Mặc dù cùng sử dụng chất liệu lụa, mỗi họa sĩ có một chủ đề, phong cách và lối vẽ khác nhau, nhưng tranh lụa của bà luôn mang nét độc đáo riêng biệt. Bút pháp của Lựu đôi khi gợi nhớ đến họa sĩ Cézanne, với chất màu dày dặn như sơn dầu. Tuy nhiên, khi quan sát kỹ, ta sẽ nhận ra màu sắc tươi sáng, trong trẻo và độ màu vừa đủ để diễn đạt các mảng màu đa dạng, tạo khối trong không gian một cách sống động và tinh tế. Thời kỳ trường Mỹ thuật Đông Dương chỉ có một số ít họa sĩ nghiên cứu vẽ lụa, như Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tiến Chung, Lương Xuân Nhị, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân, Lưu Văn Sìn, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Lê Phổ, Lê Văn Đệ… khi nhắc đến họa sĩ Lê Thị Lựu nhà nghiên cứu mỹ thuật Thụy Khuê đã viết: “tranh lụa của Lựu thắm đượm tình yêu quê hương, dân tộc của một người con xa xứ”[11]. Tranh lụa của bà êm dịu, ánh sáng nhẹ nhàng, màu sắc tươi tắn, mềm mại trong nét bút, chủ đề chuyên biệt. “Màu sắc trong tranh Lê Thị Lựu phản ảnh hai không gian hai tâm tưởng: ánh sáng Pháp hồn dạ Việt”[12]. Nhân vật trong tranh của bà thường được thể hiện gương mặt đầy đặn (trái xoan), mũi dọc dừa, môi trái tim, mắt bồ câu và chân mày lá liễu. Những nét đẹp tiêu biểu trong quan niệm thẩm mỹ của người Việt thời bấy giờ. Văn hóa Việt Nam được thể hiện rõ nét qua sự phân minh – khúc chiết trong từng chi tiết của tác phẩm, đặc biệt là sự phân chia rõ ràng giữa các yếu tố chính và phụ. Nhân vật chính luôn được miêu tả kỹ lưỡng, chi tiết về hình khối và màu sắc, tạo nên điểm nhấn nổi bật cho toàn bộ bức tranh.
Lê Thị Lựu – Cậu bé tóc vàng, lụa bồi trên giấy, 24,6×17 cm, khoảng 1946.
(Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh)
Ví như, trong bức “Sơn nữ”, nhân vật chính được khắc họa với thân hình cân đối và khuôn mặt đầy đặn, sắc hồng tươi tắn. Xung quanh thiếu nữ là những bông hoa đủ màu sắc, tạo nên một không gian sống động và rực rỡ. Sự phân minh – khúc chiết được thể hiện qua cách phân chia các mảng: mảng chính lớn – mảng phụ nhỏ, chính rõ – phụ mờ, chính sáng – phụ tối. Điều này không chỉ giúp tôn lên vẻ đẹp của nhân vật chính mà còn tạo ra một sự hài hòa và cân đối cho toàn bộ tác phẩm.
Sự tài tình của bà còn nằm ở khả năng phối hợp màu sắc và ánh sáng, tạo nên những điểm nhấn tinh tế và cuốn hút. Những màu sắc tươi sáng, được sử dụng một cách khéo léo, giúp làm nổi bật nhân vật chính, trong khi các yếu tố phụ mờ nhạt dần vào nền, tạo nên sự tương quan giữa chính – phụ bổ trợ lẫn nhau làm cho nội dung tác phẩm có chiều sâu cả về mặt kỹ thuật lẫn ý nghĩa bên trong của tác phẩm. Sự tương phản giữa sáng và tối, giữa rõ và mờ, giúp tạo ra một hiệu ứng thị giác ấn tượng, khiến người xem không thể rời mắt.
Trong tác phẩm “Mẹ địu con”, hình ảnh hai mẹ con được tác giả khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc. Người mẹ, nhỏ nhắn và thanh mảnh, nhẹ nhàng địu đứa con thơ trên lưng, tạo nên một bức tranh tràn đầy yêu thương. Đứa trẻ, với khuôn mặt bầu bĩnh, đôi má phúng phính hồng hào đáng yêu, ánh mắt thơ ngây trong sáng, tựa đầu vào vai mẹ, như một biểu tượng của sự vô tư và hồn nhiên. Tác giả không chỉ miêu tả tình mẫu tử mà còn khắc họa vẻ đẹp chuẩn mực của người phụ nữ xưa: đôi mắt bồ câu sâu thẳm, mũi dọc dừa thanh thoát và chân mày lá liễu duyên dáng. Người mẹ trẻ, với đôi mắt đầy ưu tư và lo toan, vẫn tỏa ra vẻ đẹp kiều diễm, rạng ngời trong sự chăm sóc dành cho con.
Trong không gian nghệ thuật này, các mảng được phân chia rõ ràng: mảng chính và mảng phụ, gần và xa, tạo nên sự phân minh và khúc chiết. Cách sắp xếp này không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp của hai mẹ con mà còn tôn vinh tình cảm thiêng liêng giữa họ, thể hiện sự kết nối sâu sắc giữa các thế hệ, tình mẫu tử thiêng liêng. Phía sau nhân vật chính có con đường mòn nhỏ, xung quanh thảm thực vật chen chúc những hoa và lá cùng nhiều cây cối lúc gần lúc xa. Bức tranh không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một thông điệp sâu sắc về tình yêu và sự chăm sóc, mang đến cho người xem những rung động và suy ngẫm về giá trị của gia đình.
Hay trong tác phẩm “Chị dạy em viết chữ nho” nhân vật chính là hai chị em, được khắc họa tinh tế với nền tranh mang màu sắc chuyển đổi nhẹ nhàng. Phía sau họ, tác giả đã tinh tế vẽ một bức tranh dân gian trên liễn gấm treo trên vách, tạo nên không gian ấm cúng, đậm chất truyền thống. Bức tranh này được vẽ ước lệ nhẹ nhàng, làm nền cho sự nổi bật của hai nhân vật chính. Hai chị em được miêu tả chi tiết, với sắc thái biểu cảm và màu da phản ánh đúng lứa tuổi, thể hiện rõ sự phân minh trong cách chia chính-phụ, gần-rõ, xa-mờ. Khuôn mặt bầu bĩnh của họ biểu hiện sự no đủ, tràn đầy sức sống và tinh thần kế thừa trong việc dạy và học giữa các thế hệ.
Lê Thị Lựu – Thiếu nữ đeo kiềng, lụa bồi trên giấy, 25×20,5 cm, 1959.
(Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh)
Những bức tranh của bà không chỉ đơn thuần là tác phẩm nghệ thuật mà còn là những câu chuyện văn hóa, phản ánh quan điểm thẩm mỹ và giá trị truyền thống của người Việt. Với sự tinh tế trong bút pháp và tài hoa trong cách xử lý chất liệu, tranh của bà đã khẳng định được vị trí riêng trong giới nghệ thuật, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng.
Màu sắc trong tranh mạnh mẽ, tươi sáng, gợi nhớ đến phong cách của họa sĩ Paul Cézanne, nhưng lại mang dấu ấn riêng của bà. Kỳ thực bà không chỉ chịu ảnh hưởng từ trường phái Ấn tượng và Cổ điển mà còn thổi hồn vào tác phẩm bằng niềm đam mê nghệ thuật sâu sắc, biến những ảnh hưởng đó thành phong cách độc đáo của riêng mình, đúng với tâm lý sáng tạo trong nghệ thuật, người họa sĩ thường thể hiện theo niềm say mê yêu thích của mình về một đối tượng có trước và từ đó sáng tạo trên vốn kiến thức nền để tạo nên tác phẩm đặc sắc của riêng mình. Tranh của bà không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật đơn thuần mà còn chứa đựng những câu chuyện văn hóa, phản ánh giá trị truyền thống và quan điểm thẩm mỹ của người Việt. Sự tỉ mỉ trong bút pháp, cùng với khả năng phối màu và ánh sáng tài tình, tạo nên những tác phẩm sống động và đầy tinh tế.
Mỗi bức tranh của Lê Thị Lựu là một kiệt tác nghệ thuật đậm chất văn hóa, chứa đựng cái đẹp tinh tế và ý đồ sâu sắc của người nghệ sĩ. Đây là kết quả của quá trình trau dồi, nghiên cứu không ngừng qua nhiều năm tháng, minh chứng cho tình yêu và sự tận tụy với nghệ thuật. Những tác phẩm này không chỉ tôn vinh cái đẹp mà còn phản ánh một phần tâm hồn và bản sắc văn hóa của dân tộc, qua đó, Lê Thị Lựu đã khẳng định vị thế riêng, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng yêu nghệ thuật. Bà bắt đầu vẽ tranh từ năm 1954. Trong giai đoạn đầu, màu sắc trong tranh của bà còn tách biệt nhưng đã có sự phong phú hơn so với tranh cổ, đặc biệt là so với những họa sĩ đời đầu như Nguyễn Phan Chánh. Tranh của họa sĩ Việt Nam thường có bố cục khác so với các nước phương Tây, với “bố cục ngang” và cái nhìn hướng lên, có lẽ xuất phát từ lịch sử dân tộc ta 1000 năm bị đô hộ, khoảng thời gian dài thời kỳ dựng nước, chống giặc ngoại xâm. Tâm ý muốn vươn lên, cái nhìn trực diện thoát khỏi xiềng xích đô hộ cũng được thể hiện trong tác phẩm. Ban đầu, bà vẽ tranh sơn dầu, sau đó dần chuyển sang tranh lụa. Sau Thế chiến, các họa sĩ như Vũ Cao Đàm và Lê Phổ dần bỏ tranh lụa vì cảm thấy chất liệu này quá ràng buộc, trong khi tranh sơn dầu tự do hơn. Về sau chỉ còn Mai Trung Thứ và Lê Thị Lựu tiếp tục với tranh lụa. Trong suốt chặng đường dài của sự nghiệp, Lê Thị Lựu đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Theo ông Ngô Thế Tân: “Từ khi còn là sinh viên đến năm 1940 xuất ngoại, bà chắc chưa vẽ đến trăm bức. Hồi ở Phi Châu chừng mươi bức. Từ khi quay lại vẽ đều có thể nói là không quá 400 bức”[13].
Lê Thị Lựu – Nhị kiều, lụa bồi trên giấy, 41,5×33,4 cm, 1954.
(Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh)
Tranh của bà có sự tương quan chung, cùng tông màu khác sắc độ, có chính có phụ, với hoa là phụ và người là chính. Nét mặt bầu bĩnh, tươi vui của nhân vật chính luôn nổi bật, thể hiện sự phân minh rõ ràng với điểm dừng, ngắt nghỉ, có chính có phụ, có nét có buông. Dù là nhân vật phụ, nét vẽ vẫn đầy đủ đặc trưng. Sự giao thoa văn hóa Đông – Tây trong tranh của bà được thể hiện qua “ánh sáng Pháp, hồn dạ Việt”.
“Lê Thị Lựu quyến luyến đất nước, làng xóm, cảnh vật quê hương nên bao giờ cũng đặt người trong tranh vào những cảnh đồng quê với màu sắc Lựu tự tạo ra, tùy theo bố cục và đòi hỏi của tranh”[14].
Những năm tháng cống hiến của bà được ghi nhận và tôn vinh khi Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh vinh dự tiếp nhận bộ sưu tập tranh Lê Thị Lựu từ ông Ngô Thế Tân, bà Thụy Khuê và ông Lê Tất Luyện trao tặng. Bộ sưu tập này là nguồn tư liệu quý giá, giúp thế hệ sau tiếp nối học hỏi và nghiên cứu, góp phần bảo tồn và phát triển nền mỹ thuật Việt Nam. Tác phẩm của Lê Thị Lựu không chỉ là các bức tranh mà còn là những trang sử sống động, phản ánh tâm hồn và sự khéo léo của một nghệ sĩ tài ba. Những tác phẩm này tiếp tục truyền cảm hứng và đóng góp to lớn vào di sản văn hóa của đất nước.
Trần Thị Ánh Ngọc
Ghi chú:
[1] Theo sử ghi, nghề dệt tơ tằm đã phát triển khá cao từ thời Lý, Trần, Lê (Nguyễn Văn Tỵ, 2019, tr.40).
[2] Nguyễn Trãi là quan đại thần triều Lê, bức tranh được sáng tác vào thế kỷ 15, hiện nay được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
[3] Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Tỵ từ đời Lý đã vẽ tranh trên lụa kể chuyện Phật giáo (Thích ca, Quang Âm, La hán, Bồ tát, …), các nhà nho có công (thờ ở Quốc tử giám), chân dung nhà vua, các trung thân nghĩa sĩ có công với nước, … (Nguyễn Văn Tỵ, 2019, tr.40).
[4] “Khi đi Vân Nam Tardieu mang về một số tranh lụa và đồ vẽ tranh lụa cho ông Chánh nghiên cứu” (Phiên bản tranh lụa) (Trang Thanh Hiền, 2017)
[5] Nay thuộc về địa giới quận Long Biên, Hà Nội.
[6] Collège du Protectorat
[7] Ngày nay trường Trưng Vương Hà Nội.
[8] Thụy Khuê, 2018, tr.14
[9] Các tác phẩm và tư liệu này được ông Lê Tất Luyện và bà Thụy Khuê trao cho Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 6/6/2018, tại Paris.
[10] Các tác phẩm đợt 2 được ông Lê Tất Luyện và bà Thụy Khuê trao tặng Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 19/10/2018, tại Paris.
[11] Thụy Khuê, 2018, tr.17
[12] Thụy Khuê, 2018, tr.52
[13] Thụy Khuê, 2018, tr.20
[14] Thụy Khuê, 2018, tr.26
Tài liệu tham khảo
1.Hà Thái Hà. (2019). “90 năm tranh lụa Việt Nam mấy chú giải về Lịch sử kỳ II: các thời kỳ và các họa sĩ “. Tạp chí Mỹ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam. Số 319 & 320, tr.48.
2. Hữu Ngọc. (2020). “Phỏng vấn họa sĩ Trần Văn Cẩn – câu chuyện sau chuyến thăm nước Pháp”. Tạp chí Mỹ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam. Số 331 & 332, tr.40-43.
3.Nguyễn Văn Tỵ. (2019). “Một vài suy nghĩ về tranh lụa”. Tạp chí Mỹ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam. Số 319 & 320, tr.40.
4.Phan Cẩm Thượng. (2020). “Nhuộm lụa hay vẽ trên lụa”. Tạp chí Mỹ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam. Số 331 & 332, tr.106.
5.Thụy Khuê. (2018). Lê Thị Lựu Ấn tượng hoàn hôn. Thành phố Hồ Chí Minh: Tổng hợp.
6.Trang Thanh Hiền. (2017). Những bức tranh lụa cổ nhất Việt Nam. http://xuandienhannom.blogspot.com/2017/10/nhung-buc-tranh-lua-co-nhat-viet-nam.html (Truy cập ngày 10/7/2024)