Bộ sưu tập Collection Tạp chí Mỹ thuật tháng 9-10 năm 2020

 

LÊ PHỔ (1907-2001) – Thiếu nữ với hoa mẫu đơn. Khoảng 1945. Lụa Kích thước: 91x71cm.   Trước thuộc bộ sưu tập tư nhân, Paris

 

Trần Hà (1911-1974) – Chiều trung du.  Năm sáng tác: Chưa xác định được. Sơn mài. 90x122cm Bộ sưu tập nghệ thuật Phúc Lâm

Mãi đến gần đây, thông qua các cuộc đấu giá nghệ thuật ở nước ngoài, chúng ta dường như mới được biết đến một số bức tranh sơn mài của Trần Hà. Và cũng mới được biết, ngoài sơn mài, Trần Hà còn vẽ cả tranh lụa.
Việc biết đến Trần Hà như một nhà hội họa như vậy, quả tình là một sự kiện ít nhiều đáng ngạc nhiên. Phần vì ông mất đã lâu (Trần Hà mất năm 1974), thông tin về ông rất ít, phần vì ông vốn chỉ nổi tiếng ở tư cách người sáng lập và điều hành Công ty sơn mài Trần Hà một thời rực rỡ vàng son, chuyên sản xuất đồ sơn mỹ nghệ ở Thủ Dầu Một và có thương hiệu lớn ở Sài Gòn.
Trần Hà tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 6 (1930-1935), học cùng khóa với Nguyễn Khang. Thời kỳ ông học cũng đúng vào thời kỳ hội họa sơn mài Việt Nam bắt đầu hình thành và phát triển, cho dù chưa thể mạnh bằng hội họa lụa nhưng đã vô cùng khả quan. Khi hội họa sơn mài đạt tới thời kỳ đỉnh cao vào đầu những năm 1940 thì ông đã rời đất Bắc, trở về Nam.
Trên phương diện nào đó, “đất sống” của tranh sơn mài chủ yếu ở miền Bắc. Tuy nhiên, bằng quan điểm thực tế, khí chất, tâm tính, và năng khiếu tinh xảo tự nhiên về kỹ thuật của người Nam Bộ, trong hội họa sơn mài, các họa sĩ Nam Bộ đã có một hướng đi khá riêng.
Cùng chung ngôn ngữ sơn mài cổ điển đồng nhất (laque unie), nhưng tranh sơn mài của các họa sĩ Nam Bộ như U Văn An, Trần Hà vẫn riêng một sắc thái, với hiệu quả bề ngoài thường giản dị mà ẩn chứa ở bên trong nhiều pháp thuật tinh vi của nghề sơn, từ chất màu, chất sơn đến kỹ thuật thể hiện, bao giờ cũng thâm trầm, sâu thẳm mà vẫn không kém vẻ lộng lẫy.
Trần Hà có sở thích vẽ phong cảnh, lúc là cảnh nhìn gần, lúc nhìn xa, và thường áp dụng lối phối cảnh song song Á Đông hoặc phối cảnh đậm nhạt. Ông luôn luôn tìm được điểm nhấn đúng chỗ, trong một cảnh tưởng như dàn trải, thậm chí hơi mờ mờ, u ảo, ông vẫn tạo ra được những vùng sáng hút mắt, một sự xao xuyến khó quên.

F.A.M.

 

 

LƯƠNG XUÂN NHỊ (1914-2006) – Ô Quan Chưởng ngày áp Tết. 1974. Màu nước. 50x70cm.    Bộ sưu tập nghệ thuật Phúc Lâm

Lương Xuân Nhị là họa sĩ nổi tiếng về nghệ thuật trau chuốt mượt mà nhất một thời. Bằng con mắt tài hoa tao nhã của người trí thức thành thị, ông nhìn cảnh vật, đời sống, con người ở thành thị hay nông thôn bao giờ cũng đượm một vẻ đẹp thanh mát, yên ả, thuần khiết. Tranh ông vững vàng về thể chất, phong phú về cách diễn tả, có ánh sáng và nhiều hòa sắc, phối sắc tươi tắn gần gũi với thiên nhiên. Ngay trong thời gian còn đang học, toàn bộ tranh lụa của ông đã được chọn tham dự Đấu xảo Paris 1937.
Nghệ thuật Lương Xuân Nhị luôn luôn “giữ được bản sắc – như ông nói – bởi vì không chịu ảnh hưởng của nghệ thuật ngoại lai”.
Từ đầu những năm 1940, một trong những chủ đề Lương Xuân Nhị ưa thích chính là mùa xuân, đặc biệt là cái không khí nhộn nhịp của những ngày áp Tết trên phố phường Hà Nội, trong tiết trời se lạnh, mưa phùn lay bay, giữa những khung cảnh hơi xam xám, bỗng nổi lên những thiếu nữ thành thị mặc áo dài màu quý như ngọc, những cô thôn nữ lên phố chạy chợ trùm khăn mỏ quạ nâu, bên những cành đào khoe sắc thắm rung rinh trong gió nhẹ. Nhiều tranh của ông vẽ về đề tài này đã được chọn in thành phụ bản cho nhiều số báo Tết ở thời kỳ ấy…
Bức tranh giới thiệu ở đây là một trong những tranh Lương Xuân Nhị vẽ ở thời kỳ sau, thể hiện niềm vui trong những ngày áp Tết ở Hà Nội thời kỳ “bao cấp”.

F.A.M.

 

TRẦN VĂN THỌ (1917-?) – Ba đứa trẻ. Khoảng 1950-1960. Lụa. 30x43cm.  Sưu tập tư nhân

Trần Văn Thọ sinh năm 1917 tại Bắc Ninh, thời Lê gọi là trấn Kinh Bắc, là đất văn vật nhất của cả nước, cái nôi của nền Phật giáo Việt Nam, quê hương bản quán của dân ca Quan họ và dòng tranh dân gian Đông Hồ.
Ông từng theo học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, và có một thời gian, ông đã cùng với họa sĩ Nguyễn Văn Quế sang sinh sống và dạy học ở Campuchia. Từ 1954, ông trở về nước, dạy môn tranh lụa tại Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn.
Tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam hiện vẫn còn lưu một bức tranh lụa của Trần Văn Thọ vẽ năm 1940: “Thiếu nữ Mường tắm”, nhuốm màu nâu tía cổ kính, liêu trai – một phong cách vẽ lụa khá phổ biến ở vào thời kỳ ấy, khi người ta vẫn còn rất chuộng những giai thoại, điển tích và những hàng chữ nho, con triện trên tranh.
Một họa sĩ như Trần Văn Thọ cũng thường giống với một nhà biên đạo. Ông luôn đi tìm chất thơ trữ tình qua những cảnh sinh hoạt thôn dã, những phút giây nhàn tản, dựa trên những cấu tứ dường như định sẵn và một thứ cảm hứng mang đậm chất dân gian, tự nhiên, mộc mạc, thanh thản. Không khí tâm tình ở đây làm gợi nhớ đến những bức tranh Đông Hồ in nét đen trên nền giấy điệp trắng, thể hiện một cái nhìn sáng trong về cuộc sống, thấm đẫm phong vị ngàn đời của làng quê Việt Nam…
Trong các nguồn tư liệu được biết đến hiện nay, chúng ta vẫn chưa tìm thấy năm mất của họa sĩ Trần Văn Thọ.

F.A.M.

 

PHAN KẾ AN (1923-2018) – Hoa phượng. 1998. Sơn dầu. 90x120cm.    Sưu tập Nguyễn Minh, Hà Nội

 

PHAN KẾ AN (1923-2018) – Bản Pắc.2010. Sơn dầu. 60x90cm.    Sưu tập Nguyễn Minh, Hà Nội

 

TRANH SƠN DẦU CỦA PHAN KẾ AN

Phan Kế An là một họa sĩ luôn luôn biết phát hiện những cảnh tượng có hình thái hấp dẫn, khác lạ. Năm 1946, tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc lần đầu tiên tổ chức tại Nhà hát lớn Hà Nội, bức tranh sơn dầu “Cơn giông trên thành cổ Thanh Hóa” của ông đã khiến nhà văn Nguyên Hồng phải gài vào bên cạnh bức tranh một mảnh giấy nhỏ ghi dòng chữ: “Tôi rất thích bức tranh này”.
Cấu tứ văn học trong hội họa của Phan Kế An rất rõ, làm cho tranh ông có một sức hút đặc trưng.
Phan Kế An sinh năm 1923 ở Hà Tĩnh, quê ở làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Từ 1944 đến 1945 (tháng 3), ông học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, và từ 1960 đến 1962 ông thực tập về hội họa hoành tráng tại Viện hàn lâm Mỹ thuật Repin ở Leningrad. Nghệ thuật ông về căn bản dựa trên hệ thống cổ điển, chú trọng hiệu quả xa gần và tương phản sáng tối qua thuật diễn hình có không gian, rất vững vàng bởi năng lực tạo thể chất và biệt tài vẽ những đường nét gân cốt mạnh mẽ. Ông thường thành công khi vẽ những cảnh tượng hùng vĩ.
Nhắc đến Phan Kế An, người ta hay nhắc đến tranh sơn mài, nhưng thực ra ông sử dụng khá thành thạo hầu hết các chất liệu cơ bản khác như sơn dầu, lụa, khắc gỗ, chì than. Ông là một trong số rất hiếm họa sĩ Việt Nam, nếu không nói là duy nhất, vẽ tranh biếm họa bằng sơn dầu.
Qua một số tranh sơn dầu của Phan Kế An, có thể thấy ông muốn đi tìm sự hoạt bát, vẻ tự nhiên trong bút pháp để thể hiện những cảm xúc tươi tắn, trực tiếp – điều mà với sơn mài thì một họa sĩ như ông khó tránh khỏi phải vượt qua những vấn đề nan giải nảy sinh từ kỹ thuật.
Bởi vậy, ngoài hội họa sơn mài, hội họa sơn dầu (và lụa) cũng là một mảng riêng thú vị và đáng chú ý trong nghệ thuật của Phan Kế An.

F.A.M.

 

TRẦN LƯU HẬU (1928-2020) – Góc Hà Nội.2007.Sơn dầu. 80x100cm.  Sưu tập tư nhân

Ra đi năm 2020, thọ 92 tuổi, Trần Lưu Hậu đã để lại một số lượng tranh lớn. Có lẽ ít ai nghĩ rằng, thực ra ông chỉ mới thực sự chuyên tâm hẳn vào hội họa kể từ cuối những năm 1980 đầu những năm 1990. Ở thời kỳ này, ông đã từ bỏ vẽ lụa để tập trung vào 3 chất liệu “mạnh- trực tiếp” phù hợp nhất với tính cách hội họa của ông: bột màu, sơn dầu và acrylic. Và với 3 chất liệu này, ông đã khẳng định vị trí của mình như là một trong những họa sĩ tiêu biểu nhất cho khuynh hướng biểu hiện cá nhân ở nước ta cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21. Trong số các họa sĩ Khóa Kháng chiến, có thể nói, về tính hiện đại, chưa ai đi xa được như ông.
Bằng một tâm hồn sung mãn, sự từng trải, một bản năng trang trí được dẫn dắt bởi kiến thức sâu rộng và một thị hiếu tốt, lại được tiếp thêm nguồn cảm hứng từ các bậc thầy như Matisse, Soutine hay Bùi Xuân Phái – Trần Lưu Hậu đã nhanh chóng vượt qua nhiều thực nghiệm giản lược và sơ đồ hóa, tích tụ thế năng – để đi tới hình thái cuối cùng hầu như trừu tượng.
Xoay quanh các thể loại tĩnh vật, cây, hoa, biển, phong cảnh (đặc biệt phố cổ Hà Nội), khỏa thân – ông phô diễn những nhịp giật mãnh liệt của nét bút, chúng chèn lấn lên nhau, chen chúc vào nhau, ép mọi sự vật vào những không gian bão hòa, biến các bức tranh thành những “thực thể”, mà thoạt nhìn ngỡ rằng “hỗn độn” nhưng thực ra lại đồng nhất và cân bằng trong một đồng bộ nguyên sắc của các màu bổ túc và trắng đen. Từ đây nội dung căn bản của hội họa ông dường như chỉ còn màu và các xung phát ra từ cách bôi-quệt màu lên bề mặt (texture), không cần tô vẽ gì thêm.

F.A.M.

 

HỒ HỮU THỦ (1942) – Thiếu nữ và hoa sen. 1989. Sơn mài. Sưu tập tư nhân, Hà Nội

Hồ Hữu Thủ là một cái tên quá quen thuộc với gallery, nhà sưu tập và người yêu nghệ thuật. Viết như vậy để bạn đọc dễ hình dung về độ phủ khắp của ông.
Tranh của Hồ Hữu Thủ luôn thể hiện những chủ đề gần gũi như thiếu nữ, hoa sen, áo dài, trăng, mây, chim, ngựa. Với một số quan niệm thì đề tài này có vẻ “sến súa” nhưng quả thực, khi chúng được thể hiện trong tranh Hồ Hữu Thủ thì những hình tượng ấy dù ở chất liệu nào cũng đều toát lên vẻ ảo diệu.
Bức tranh “Thiếu nữ và hoa sen” giới thiệu ở đây được Hồ Hữu Thủ vẽ vào những năm cuối cùng của thập kỷ 1980. Lúc ấy, một số tác phẩm sơn mài của ông vẫn được làm hoàn toàn theo phương thức truyền thống. Cốt vóc dày, sơn chồng nhiều lớp, bề mặt bóng mịn, sâu thẳm. Sau này, ông làm sơn mài trên những tấm vóc mỏng hơn, nhẹ hơn do chính ông tìm tòi nghiên cứu. Bởi ông muốn làm trọng lượng tranh sơn mài nhẹ đi để có thể vận chuyển dễ dàng, thuận tiện… hướng tới mục tiêu tranh sơn mài được phổ biến rộng hơn nữa.
Bức tranh “Thiếu nữ và hoa sen” có một màu xanh dịu nhẹ, tươi mát. Ở thời kỳ ấy Hồ Hữu Thủ vẫn tạo hiệu ứng đặc biệt với “sắc màu trong như con sứa”. Điều này tương đồng với một họa sĩ rất nổi tiếng khác của miền Nam là Nguyễn Trung.
Điều đặc biệt trong bức tranh này chính là tinh thần của tác phẩm. Cũng chủ đề ấy, kỹ thuật ấy nhưng rõ ràng, sự dịu nhẹ của sắc, sự mong manh của hai nàng thơ “bán nude” với mái tóc biến thể từ những cành sen đã tạo nên sức hút lạ lùng. Hiệu ứng “màu trong như sứa” ấy kết hợp với các vết gạch xước dày đặc có chủ ý đã tạo sự tương phản về chất liệu khiến cho bề mặt tranh có nhiều sắc thái sinh động.

H.A.

 

 

 

Tin cùng chuyên mục

Bộ sưu tập Collection Tạp chí Mỹ thuật tháng 7-8 năm 2020

  Trần Quang Trân có thị hiếu cổ điển, sở thích của ông là vẽ chùa chiền, các công trình kiến trúc cổ, cây cổ thụ, mặt nước… Xem tranh ông người ta thường thấy nắng và những cái bóng...

Bộ sưu tập Collection Tạp chí Mỹ thuật tháng 5-6 năm 2020

  Linh Chi (1921 – 2016) Tác phẩm: Thiếu nữ vùng cao Năm sáng tác: Khoảng 1990 Chất liệu: Lụa Kích thước: 55x37cm Bộ Sưu tập Nghệ thuật Quang San, TP. Hồ Chí Minh     Trần Đông Lương...

Bộ sưu tập Collection Tạp chí Mỹ thuật tháng 3-4 năm 2020

  Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993) Tác phẩm: Bố cục Năm sáng tác: Khoảng 1960-1970 Chất liệu: Mực nho, màu nước, phấn màu Thuộc Bộ sưu tập Nghệ thuật Quang Phúc, Hà Nội   Nguyễn Gia Trí bắt...

Bộ sưu tập collection Tạp chí Tết năm 2020

  JOSEPH INGUIMBERTY (1896-1971) Tác phẩm: Hai cô gái bên bờ ao Năm sáng tác: Khoảng 1940-1943 Chất liệu: Sơn dầu Kích thước: 106x81cm Thuộc bộ sưu tập Nghệ thuật Quang San, Tp. Hồ Chí Minh   Joseph...

Bộ sưu tập – Collection Tạp chí Mỹ thuật tháng 9-10 năm 2019

  Tư tưởng và nghệ thuật của Trần Duy diễn biến qua một mối tưởng phản: một bên là con người xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến “con vua cháu chúa” ở Huế, một bên là con...

Tin cùng chuyên mục

Nghệ thuật Việt Nam thế kỷ 20 – Phiên đấu giá của Nhà đấu giá Le Auction House

  Hướng tới mốc kỷ niệm 100 năm thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương, Nhà Đấu giá LE AUCTION HOUSE tổ chức phiên Phiên đấu giá “Nghệ Thuật Việt Nam Thế Kỷ 20” vào ngày 10/03/2024. Quy...

“Những chân trời vô tận” – Triển lãm giao lưu quốc tế của 8 nữ họa sĩ Việt Nam và Philippines

Khai mạc ngày 28/10/2023, triển lãm “Những chân trời vô tận” là sự kết hợp của 8 nữ họa sĩ: Trang Thanh Hiền, Nguyễn Thu Thuỷ, Nguyễn Mỹ Ngọc, Ly Trần, Phạm Thị Hồng Sâm đến từ Việt Nam và...

Bài 5: Cần sự đầu tư xứng đáng cho bảo tàng

(Chinhphu.vn) – Câu chuyện bảo tàng vì sao vắng khách tuy không mới nhưng luôn nhận được sự quan tâm của các nhà chuyên môn bởi bảo tàng có vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa...

Bài 3: Công nghệ – Sự thay đổi có tính cách mạng trong hoạt động bảo tàng

(Chinhphu.vn) – Công nghệ đã làm cho ngôn ngữ bảo tàng trở nên sống động, đa dạng, hấp dẫn, tăng khả năng tiếp cận công chúng. Có thể nói, công nghệ đã góp phần không nhỏ đem lại sự thay...

Những cuộc đấu giá sẽ định hình xu hướng nghệ thuật cũng như tên tuổi của các nghệ sĩ lớn

Các cuộc đấu giá đoán trước sự nổi lên của các ngôi sao, xác định các xu hướng trong bối cảnh đương đại thông qua lợi nhuận. Trong khi nhiều người xem đổ dồn sự chú ý của họ về cuộc...

Có thể bạn quan tâm

NHỚ VỀ KHOA LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ MỸ THUẬT

  Tháng 12 năm 1978, Khoa Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật, trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội, được thành lập. Đó là quyết định táo bạo của nhà trường, ông hiệu trưởng Trần Đình Thọ và...

SÀNH THƯỞNG NGOẠN – NHỮNG LỜI BÀN CỦA MỄ PHẤT VỀ HỘI HỌA

  Mễ Phất (1051-1107), tự là Nguyên Chương, hiệu Tương Dương mạn sĩ, Hải nhạc ngoại sử, là người Tương Dương, Hồ Bắc. Người đời gọi ông là Mễ Tương Dương. Ông cùng với Thái Tương,...

THỬ TÌM NHỮNG BỨC TRANH BẤT HỦ CỦA HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

  KÌ II: 5 BỨC TRANH CỦA NGUYỄN SÁNG TIẾP THEO SỐ XUÂN CANH TÝ (SỐ 325&326, 1-2/2020) Hội họa Việt Nam thế kỷ 20 có để lại một vài tên tuổi lớn. Nếu chỉ được phép chọn ra ba người, thì...

Một góc nhìn hội họa Việt Nam từ các phiên đấu giá quốc tế năm 2018

  Các phiên đấu lớn của Christie’s, Sotheby’s, Aguttes năm 2018 đã khép lại với nhiều bâng khuâng. Tuy không đạt đỉnh, đạt mốc kỷ lục như “The Family” của Lê Phổ với hơn...

TRANH XUÂN TRÊN GỐM SỨ CỔ

  Xuân – Tết tạo nên một cảm xúc rất đặc biệt đối với mỗi người, nó được xem như thời khắc khởi nguồn cho những điềm lành, những gì thanh cao, trong sáng nhất. Vì thế, người xưa...