
Đồng chí Lê Đức Anh, tên thật là Lê Văn Giác (bí danh Nguyễn Phú Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 1/12/1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1938, khi mới 18 tuổi, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 23/9/1945, kháng chiến Nam Bộ bùng nổ, ông được điều vào quân đội, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy từ đại đội, chi đội, trung đoàn rồi được đề bạt làm Tham mưu trưởng Quân khu 7, Quân khu 8, Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn và cuối cùng là quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp.
Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, ông tập kết ra Bắc, lần lượt đảm trách các chức vụ Cục phó Cục Tác chiến, Cục phó rồi Cục trưởng Cục Quân lực – Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1963, ông được đề bạt làm Tổng Tham mưu phó Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên những cương vị được giao, ông có công lao lớn trong việc xây dựng quân đội, xây dựng các công trình phòng thủ miền Bắc để sẵn sàng đánh trả khi đế quốc Mỹ dùng không quân và hải quân ném bom, bắn phá miền Bắc nước ta.
Năm 1964, trước yêu cầu của chiến trường, từ miền Bắc, ông được điều động giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam và liên tục ở chiến trường Nam Bộ cho đến ngày toàn thắng. Hơn 10 năm trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy chiến trường Nam Bộ đã bộc lộ rõ tài năng và sự quyết đoán, dám chịu trách nhiệm của ông đối với cấp trên, với đồng bào, đồng chí. Ông trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo chiến dịch đường 14 – Phước Long, giải phóng thị xã Phước Long – đòn trinh sát chiến lược thăm dò sức chiến đấu của quân đội Sài Gòn và khả năng quân Mỹ có can thiệp trở lại miền Nam khi quân ta đánh lớn(?). Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông là Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh Đoàn 232 đánh chiếm Sài Gòn từ hướng tây – tây nam và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ông được điều động trở lại địa bàn Quân khu 9 làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu. Tháng 6/1978, ông lại được tin cậy điều động trở lại Đông Nam Bộ giữ trọng trách Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 để chuẩn bị cho những chiến dịch lớn trừng trị bè lũ Pôn Pốt – Iêng Xary, đẩy chúng ra khỏi biên giới và giúp bạn đánh đổ chế độ diệt chủng, cứu dân tộc Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng. Tháng 6/1981, ông được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Tháng 12/1986, ông về Tổng hành dinh làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và đến tháng 02/1987 giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với tư duy sắc sảo của mình, ông góp phần quan trọng trong công cuộc bảo vệ biên giới và chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, được Bộ Chính trị giao trọng trách thăm dò và trực tiếp tiến hành nhiều công việc hệ trọng xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc, từng bước đưa đất nước gia nhập ASEAN.
Tháng 9/1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992 – 1997. Trên cương vị Nguyên thủ quốc gia, ông góp phần cùng tập thể Bộ Chính trị lãnh đạo, điều hành đất nước vượt qua giai đoạn hiểm nghèo khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, tan rã, kiên định con đường đổi mới để tiến lên.
Với những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta, đồng chí Lê Đức Anh đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
