Năm 1979, sau hai mươi năm không về Việt Nam, tôi đến Hà Nội vào mùa thu. Sau năm ngày ngồi ở nhà với gia đình, tôi dè dặt bước chân ra phố. Mấy ngày đầu được em út, các chú đèo xe đạp đi chơi, những ngày sau dù gia đình không ưng ý, tôi xin được phép ngồi một mình. Vốn là người quen và thích được tự do, thoải mái, nhưng cũng sợ cái thói quen trong giao thiệp, ăn nói của mình, tôi tự hứa là sẽ không trò chuyện với ai về một số đề mục để khỏi vô tình làm mất lòng ai đó và tránh những phức tạp khi mình ra khỏi nước về Oslo, về nhà.
Tôi có một ý định mang cùng theo chuyến về này, đó là tìm hiểu thêm về những món đồ cổ, đồ sứ của châu Á. Ảnh hưởng nghệ thuật của châu Âu đối với tôi rất nặng, chồng tôi là người thầy đầu tiên của tôi, ngoài ra tôi được thấy rất nhiều về những mục đề này, nhưng nghệ thuật của châu Á thì biết rất ít hay chỉ qua sách vở. Tôi không có một chương trình nên tìm hiểu từ đầu, như thế nào, qua ai? Nhưng khi được chú ruột tôi cho biết ông Đinh Mã (Nhà sưu tập Đức Minh) là người sưu tập, người am hiểu về môn này. Tôi tìm cách gặp và ghé vào một hàng bán đồ cổ gần hồ Hoàn Kiếm, nơi có thể liên lạc được với ông.

Vừa bước vào cửa hàng, chưa kịp hỏi người bán thì thấy một anh mặc dân phục đến sau tôi. Không tự giới thiệu, không thanh minh, đưa đón, anh này hỏi thẳng tôi vào đây để làm gì ? “Người trinh sát, công an” – tôi nghĩ. Ngạc nhiên vì sự có mặt của anh này một cách đột ngột, lại càng ngạc nhiên hơn khi tôi chưa kịp trả lời thì thấy chú tôi đứng trước cửa. Chú đỡ lời tôi:
“Cháu nó đi cùng tôi, chỉ muốn xem có cái đồ sứ nào mua làm kỷ niệm”.
Tôi nhìn chú, bảo:
“Con không định mua gì đâu, chỉ muốn hỏi xem ông Đinh Mã có nhã ý dạy cho con một bài học về đồ cổ”.
Nhìn nét mặt chú, tôi đoán ra mình đã nói cái gì mà đáng ra không nên nói. Tôi nhìn anh công an hỏi:
“Tôi từ nước ngoài về, muốn tìm hiểu về nghệ thuật, đồ sứ, đồ sành của Việt Nam, vậy tôi có quyền vào hàng nào mà không bị anh cấm ?”.
Anh công an chắc thấy cái vô tư của tôi, hay vì tôi cũng hỏi thẳng như anh hỏi tôi, nên giọng anh dịu lại:
“Chị vào hàng nào cũng được. Đây, trên phố này có nhiều phòng tranh, phòng triển lãm, đồ sơn mài, đồ sứ, đồ sành… đủ cả”.
Sau vụ này, tôi không ghé vào bất cứ một phòng nào có đồ cổ. Riêng ông Đinh Mã, tôi cũng không tìm gặp ông lần đó nữa.
Vì lý do trên, vô tình không định trước, hai chú cháu tôi ghé vào một Gallery bên cạnh, đúng cuộc triển lãm tranh lụa với nhiều tác phẩm. Tranh lụa nhẹ, nên tôi có ý định mua được một ít. Đề nghị Gallery tìm thêm một số nữa của những họa sĩ tôi được nghe tên để tôi chọn lọc. Vài ngày sau, giữa hơn tám mươi bản, tôi lấy gần ba mươi, trong đó có mấy bức của Nguyễn Đức Toàn – một nhạc sĩ tôi thường hát bài của ông, bây giờ là họa sĩ. Những bức tranh này mang máng Art Nouveau, tôi thích nhất bức Người thiếu nữ thổi sáo. Những bức này đưa về Oslo, tôi tổ chức triển lãm ở sáu tỉnh, giới thiệu lần đầu tiên về nghệ thuật của Việt Nam – một nước mà ngoài chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, họ chẳng biết gì hơn về nước này. Riêng bức Người thiếu nữ thổi sáo, chồng tôi mang về Ba Lan, đặt một bức thảm dệt bằng len màu, cỡ 1,85m x 1,35m do một nghệ sĩ nổi tiếng dệt thảm của Ba Lan hoàn thành – chị Teresa Putowska. Bức thảm đó khi mang về Oslo, được một người giữ quyền trang trí nhà hát mới xây xong muốn mua với một giá rất cao, nhưng chúng tôi từ chối.
Người thiếu nữ thổi sáo là một trong những tài sản mà những thế hệ sau phải giữ lại ở trong gia đình.
Lệ Tân
Oslo, 1998
(*) Bài viết này của Kiến trúc sư- Nhà sưu tập Lệ Tân khi bà đến thăm Hà Nội, mùa thu năm 1979. Bài đã được in trong cuốn “Sưu và Tầm” của bà (tái bản năm 2015). TCMT đăng giới thiệu với bạn đọc hiểu thêm về một NST rất có tâm với mỹ thuật quê hương.