ẢO ẢNH

 Hồi ức làm sụp đổ thời gian
(Walter Benjamin)
Ảo ảnh là tên của dự án nghệ thuật mới nhất của Lê Ngọc Thanh và Lê Đức Hải, cặp nghệ sĩ song sinh gốc Quảng Bình, sống và làm việc ở TP. Huế hơn 20 năm qua. Ảo ảnh không phải là một dự án đơn độc, mà nằm trong những trạm thực nghiệm nghệ thuật do cặp song sinh họ Lê thực hiện trong nhiều năm qua về các chủ đề lớn: Bạo lực, Lịch sử, Sự kết nối và đặt chúng trong trường suy nghĩ tạo bởi những va đập liên tục của cuộc sống thực tại. Từ các dự án sớm như ‘Chạm tới biển’ (2011) suy nghĩ về ước vọng và ranh giới, chia tách và thống nhất song hành với lịch sử hành vi và sinh tồn của con người; tới ‘Cây cầu’ (2010 – 2015) trình diễn sự kết nối trong các bối cảnh bạo lực và tìm kiếm hàn gắn sự đứt gãy của khung cảnh tới đối tượng vật chất và phi vật chất, từ đó đặt cuộc đối thoại trong nhiều không gian thực địa với các bối cảnh khác nhau từng có lịch sử chia cắt (vĩ tuyến 17, Hàn Quốc, Đức); ‘Trước 86’ khảo sát cận cảnh hơn về bạo lực và chiến tranh trong các hình hài con người cụ thể biểu đạt bởi các chân dung phi-bạo-lực; ‘dự án ĐỎ’ (2013) truy vấn về nguồn cơn của bạo lực và tiếp cận các nhân vật đầu não của lịch sử; ‘Trò chơi’ (2013-15) diễn giải chiến tranh, mối quan hệ ta-địch, trong cuộc hành hương trình diễn tại các thực địa  ký ức. “Ảo ảnh”, là chuỗi suy tư gần nhất, thoạt đầu có tên gọi ‘nỗi buồn chiến tranh’ nhưng nhanh chóng phát triển với hàm ý rộng hơn, hay tiếp cận ở chiều sâu, về nhìn nhận bạo lực xuyên các tầng lớp lịch sử và ‘bóc tách’-đặt chúng trong các khung cảnh đối thoại với vật chất và ý thức đương đại, và có khả năng chuyển biến sang nhiều ngôn ngữ nghệ thuật thị giác và đa phương tiện.
LÊ NGỌC THANH và LÊ ĐỨC HẢI – Ảo ảnh 6
Triển lãm này giới thiệu 19 bức tranh và 4 chum gốm lớn, đánh dấu chặng dừng đầu tiên của một dự án dài hạn. Những bức tranh được xử lý bằng các kỹ thuật làm tranh sơn mài, nhưng không quá phụ thuộc vào kỹ thuật truyền thống mà kết hợp nhiều thủ pháp và vật liệu tự nhiên và công nghiệp để tạo nên hiệu quả thị giác cuối cùng. Dùng vải vẽ (toile) như một bề mặt phẳng và đặt các lớp hình thể được vẽ chồng lên một cách có chủ đích: lớp đầu là các hình thể vẽ lại theo khảo sát và ký ức từ các kiến trúc cổ ở Huế, các hoa văn chạm khắc trên Cửu đỉnh, những con thú và vật linh, vũ khí và đồ vật mang tính bạo lực, vật dụng nhà cửa đồ đạc hiện đại; và được phủ lên bởi lớp thứ hai là chuỗi hoa văn liên miên của mây lửa, sóng nước, vảy cá hay chấn song ảnh hưởng từ các trang trí chạm khắc trên kiến trúc, đồ vật cung đình được biến hóa theo sự tương tác với hình thể ở lớp thứ nhất. Các chum gốm là cách thể nghiệm khác của hội họa bề mặt phẳng lên vật thể 3 chiều trong chuỗi sáng tác, vừa có sự thống nhất về ngôn ngữ thị giác của tranh, nhưng vẫn phảng phất sự độc lập uy nghi của Cửu đỉnh – tập hợp các cảnh sắc và sản vật vùng miền trong phông văn hóa bối cảnh phong kiến. Những bình gốm này chưa hẳn là các Cửu đỉnh đương đại, nhưng vẫn mang ý tưởng tập hợp các đối thoại hình thể và cảm xúc xuyên qua quá khứ tới hiện tại nhằm mang đến ý vị thẩm mỹ khác biệt lồng trong hình hài cổ kính.
Hai anh em họa sĩ Lê Ngọc Thanh và Lê Đức Hải
Quá trình vẽ tranh là một sự thú vị của thực hành nghệ thuật rất đặc biệt chỉ có với cặp song sinh họ Lê – hoặc chỉ xảy ra ở những nhóm/ cặp/ đối tác có năng lực làm việc trên cơ sở kết nối ở phương diện tính cách, hành vi và tâm trí. Khi bề mặt tranh đã sẵn sàng, một người sẽ vẽ những hình thể lên đó và người kia thì tìm cách tương tác với chúng bằng các chuỗi hình vẽ đè-chồng lên trên. Các hành vi này không bị đứt đoạn bởi yêu cầu kỹ thuật hay thời gian, mà diễn ra liên tục bởi cách vẽ ở từng khu vực nhỏ trên bề mặt tranh, rồi chuyển qua chỗ khác để tiếp diễn, liên miên như thế cho đến khi toàn bộ bề mặt toan được phủ kín. Người vẽ hình thể liên tục tạo ra hình vẽ cảnh sắc cổ xưa, đền đài và vật linh, vũ khí cổ tới hiện đại, vật dụng cơ khí như một thuyết trình tuôn chảy theo dòng ký ức hồi cố hoặc tư duy hiện sinh, trong khi người kia tương tác (bằng cách phủ lên) các hình thể đó theo nhiều cách thức: đối thoại hoặc tiếp biến, hoặc phủ nhận, hoặc chối bỏ, hoặc xung đột, hoặc hòa hợp. Các thảo luận và tranh cãi diễn ra giữa hai người ngay khi cùng vẽ, ở năng lượng bộc lộ trên bề mặt tranh, ở những hình thể và cấu trúc-nhịp điệu chuyển động trong từng góc cạnh liên tục từ bức này sang bức khác và kéo dài mãi. Bức tranh do vậy không có kết thúc và không cần kết thúc bởi tính diễn tiến liên tục của dòng tư tưởng và chuỗi đối thoại. Chúng có thể được bày đặt liên tiếp với nhau, hoặc đứng độc lập mà vẫn biểu hiện được tinh thần của dòng ký ức và đối thoại như vậy.
LÊ NGỌC THANH và LÊ ĐỨC HẢI – Ảo ảnh 5
LÊ NGỌC THANH và LÊ ĐỨC HẢI – Ảo ảnh 4
Là loạt sáng tác trong vòng hơn 2 năm (từ 2017 đến 2019), những bức tranh này cho thấy một quá trình chuyển đổi của nhận thức và cảm xúc tác động ngược lại tới chủ đề. Thoạt tiên là loạt tác phẩm đen trắng làm chủ đạo, sự đối lập của hai sắc độ màu tạo ra sự căng thẳng và kịch tính của bức họa, và dấu ấn bạo lực rõ nét, được vẽ giai đoạn 2017-2018. Những loạt tranh sau đó được sử dụng nhiều màu sắc hơn, tạo ra những hòa sắc mềm, êm, tính căng thẳng giảm bớt rõ rệt, nhiều cảm xúc và trạng thái mơ hồ, hư thực, phù hoa và điêu tàn. Chuyển biến này phản ánh thú vị về thay đổi trong tâm sinh lý sáng tác của nghệ sĩ, khi sự căng thẳng, ức chế cực đoan ban đầu được thay thế-mềm hóa bằng sự tự lý giải, thấu hiểu, chấp nhận rồi trở nên tĩnh lặng, thâm trầm. Điều đó cũng thể hiện sự thay đổi trong nhận thức chung về ý tưởng, và chuyển động trong ý tưởng, từ phản ánh bạo lực sang tiếp nhận chúng, kết nối chúng với các thuộc tính địa-lịch sử sẵn có và dần dần đưa các cảm quan của thực tại vào đó. Ý niệm về ảo ảnh từ đó khởi sinh và thay thế ‘nỗi buồn chiến tranh’ – chuyển hóa hồi ức bạo lực thành cách đối thoại và truy vấn về quá khứ, các hệ giá trị cũ mới vẫn đang song hành, và sự mờ ảo của đời sống nhân sinh.
Một tác phẩm sơn mài trên gốm của Lê Ngọc Thanh và Lê Đức Hải
Triển khai bức tranh theo hai lớp của hai nghệ sĩ cũng nói lên nhiều ý tưởng và cảm quan về sự nghịch lý và cách biệt của đời sống nội tại con người và thế giới vật chất bên ngoài. Lớp hình thể với những cảnh quan, đồ vật nếu để biểu đạt đời sống văn minh vật chất trôi nổi quá khứ tới hiện tại với nhiều sắc thái góc cạnh, thì lớp phủ trên với các hoa văn kỷ hà bất tận là tấm màn che phủ nhận thức, mà con người khi tự soi chiếu về bản thân và vị trí của mình trong thực tại và lịch sử luôn cảm thấy mù mờ, để luôn tự bất an và mâu thuẫn. Nhìn vào bức tranh tựa như ta nhìn qua tấm kính của ngăn tủ trưng bày bảo tàng, hay ngồi trong tấm song cửa sổ nhìn ra các chuyển động cuộc sống bên ngoài. Liệu có thể phân biệt được bên trong-ngoài, đâu là thực tại và đâu là mơ hồ. Ảo ảnh không chỉ nằm ở sự phủ nhận hay che mờ sự vật và hiện tượng, mà còn nằm ở trong chính mâu thuẫn nội tại của nhận thức và trực giác mỗi người, nằm giữa khát vọng của ý thức thực tại và bất lực trước hiện hữu của vô minh.
Vượt qua khỏi khuôn khổ của những thực hành hạn chế theo loại hình như hội họa hay gốm bó buộc bởi các thao tác cơ học trên cơ sở vật chất, ‘Ảo ảnh’ cho thấy một diễn trình về tư duy với những tranh cãi, ẩn ức, truy vấn, phản tư của hai cá nhân phản chiếu qua lại lẫn nhau, và nghệ thuật là kết quả cuối cùng. Tính liên tục của ý tưởng được phát triển theo cách đối chọi tương hỗ của biện luận theo cách thức riêng biệt của cặp song sinh họ Lê, không chỉ dừng lại ở loạt sáng tác này, mà còn đem đến những khả thể chuyển tiếp sang nhiều cách thức thể hiện khác cả ở vật chất và ý niệm, để tạo ra những tổ hợp nhiều tầng lớp hơn về khung cảnh và ánh sáng, bạo lực và thịnh thế, ý niệm lẩn khuất và hình hài mờ nhạt, quá khứ phù hoa và thực tại điêu tàn. Những tìm kiếm và truy vấn này không nhằm để đuổi bắt quá khứ, mà là để chúng khởi sinh trong khung cảnh của nhà hát thực tại (theo Walter Benjamin), để tự tìm kiếm ý nghĩa chung cuộc của lý do cần thiết tồn tại của chúng. Điêu tàn, vẫn hiển thị và di động trong những khung cảnh và ý niệm của chúng ta ở thực tại phù sinh này, và nghệ thuật, vẫn là một phương tiện đa tầng và nhiều sắc thái để soi chiếu các phức cảm của con người đương thế.
Nguyễn Anh Tuấn 

Tin cùng chuyên mục

Dám – Trong “Khoảng lặng II” của họa sĩ Dũng trống

Những bức tranh này hay quá, cả nội dung và màu, xem rất thích. Vị khách ngắm tranh thốt lên khi gặp các tác phẩm mới của hoạ sĩ Dũng Trống, thành quả anh vẽ gần hai năm nay, anh âm thầm sáng tác...

Mạn đàm về sáng tác mỹ thuật đề tài “Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng”, đánh giá và giải pháp

Có thể khẳng định rằng tranh – tượng về đề tài Lực lượng vũ trang & Chiến tranh Cách mạng (LLVT & CTCM) đã hiện diện trong đời sống và lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam trước...

Mỹ thuật ứng dụng: Tiềm năng lớn để phát triển ngành công nghiệp văn hóa

Mỹ thuật ứng dụng là một lĩnh vực rộng, đã và đang chạm vào mọi mặt của đời sống xã hội. Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, việc phát triển mỹ thuật ứng dụng, với các sản phẩm, thiết...

Vẻ đẹp ký ức qua “Thiên đường hoàn hảo” của họa sĩ Lưu Tuyền

NDO – Thuộc thế hệ họa sĩ đương đại lứa 8x, sáng tác của họa sĩ Lưu Tuyền chứa đựng trong đó các giá trị văn hóa truyền thống dưới những góc nhìn khác nhau về đời sống xã hội. Anh...

Nét đẹp dân gian trong triển lãm tranh “Biến Tượng”

Trong hội họa Việt Nam đương đại, nhiều họa sĩ sử dụng trực tiếp hình ảnh của những sản phẩm nghệ thuật dân gian để xây dựng tác phẩm. Một điều khác ở nghệ thuật của Vũ Hiệp, tranh...

Có thể bạn quan tâm

GỐM THÀNH LỄ

  Năm 1958, ông Nguyễn Thành Lễ mở thêm xưởng gốm Thành Lễ ngoài xưởng sơn mài. Ông cho mời nhóm thợ của Hợp tác xã (HTX) Mỹ nghệ Biên Hòa sang làm cố vấn, làm đầu đàn cho xưởng gốm...

VIẾT VỀ CHA TÔI

  Nhân dịp Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức Lễ Kỷ niệm 110 năm ngày sinh của cha tôi – họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 – 20.6.1993), tôi xin có mấy lời cảm tưởng như sau. Tôi chưa được về...

TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT MÙA COVID-19

  COVID-19 đang là nỗi lo trên toàn thế giới. Ở Việt Nam nhiều nghệ sĩ đã vượt qua nỗi sợ hãi và lấy cảm hứng, kết nối hình thành nên những tác phẩm nghệ thuật đặc biệt từ chính đại...

Chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa là một trong những xu hướng lớn

Thứ trưởng Bộ VHTTDL Tạ Quang Đông cho rằng, chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa là một trong những xu hướng lớn, xu hướng quan trọng trong thời gian hiện nay, để bảo đảm cho chuyển đổi số...

Bìa Tạp chí Mỹ thuật số 321&322 tháng 9-10/2019

...