Phương thức sản xuất số trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng, nhân loại cũng như mỗi quốc gia, dân tộc đều trải qua những giai đoạn, những thời kỳ phát triển kế tiếp nhau. Và khi nhân loại hoặc một quốc gia, dân tộc nào đó bước vào một dấu mốc mà ở đó hiện hữu một thời kỳ đánh dấu sự phát triển mới, có tác động, có ảnh hưởng quyết định đối với tiến trình vận động tương lai của xã hội thì nhân loại hay quốc gia, dân tộc đó đã bắt đầu một kỷ nguyên mới. Có nhiều thành tố quan trọng để nhận diện đặc trưng của một kỷ nguyên mới. Trong đó, thành tố chủ yếu và quan trọng nhất để chỉ ra đặc trưng bản chất của kỷ nguyên mới đó chính là phương thức sản xuất mới. Bởi vì, phương thức sản xuất là thành tố có tính quyết định, vừa là nguồn lực vừa là điều kiện và là động lực cho sự phát triển của xã hội, đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội, con người.

  1. Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cuộc cách mạng tạo ra đột phát và sáng tạo. Trong cuộc cách mạng này, các tri thức, ý tưởng và công nghệ mới luôn luôn được xuất hiện và thực hiện. Chính việc luôn luôn tạo ra và hiện thực hóa tri thức, ý tưởng và công nghệ mới mà tạo ra đột phá, sáng tạo và nhân loại phát triển mang tính bùng nổ. Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cuộc cách mạng số, tức là cuộc cách mạng công nghiệp được triển khai dựa trên nền tảng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là trí tuệ nhân tạo, công nghệ số, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,… và hệ quả tất yếu của cuộc cách mạng số chính là đòi hỏi phải có quá trình chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực và các quá trình hoạt động trong xã hội.

Như vậy, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với thực chất là quá trình triển khai hiện thực hóa chuyển đổi số trên cơ sở vận hành của trí tuệ nhân tạo và nhờ đó, nhân loại bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên thông minh. Chính vì vậy, để định vị cho thế giới và Việt Nam đang ở giai đoạn nào trong sự phát triển, vào tháng 10/2024, trong cuộc đối thoại với sinh viên các trường đại học Việt Nam tại Đại học Quốc gia Hà Nội về chủ đề “Định vị Việt Nam trong kỷ nguyên thông minh – Tầm nhìn cho thế hệ trẻ”, Giáo sư Klaus Schwab, Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã chia sẻ bức tranh tổng quan về các lực lượng đang định hình thế giới, với nhiều yếu tố biến đổi và phức tạp hơn, mang lại cả thách thức và cơ hội cho tất cả các quốc gia trong đó có Việt Nam. Đó là sự chuyển đổi từ một trật tự toàn cầu ổn định sang một thế giới đa cực, thường xuyên xảy ra xung đột; sự chuyển tiếp từ thời đại công nghiệp sang thời đại thông minh; sự phân cực ngày càng gia tăng trong xã hội, nhưng trọng tâm chính vẫn là sự ưu trội của những xu thế do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang định hình kỷ nguyên thông minh của nhân loại. Cũng theo Giáo sư Klaus Schwab, kỷ nguyên thông minh của nhân loại cũng chính là cơ hội, thách thức và định vị Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới; là những yêu cầu đặt ra đối với thế hệ trẻ để nắm bắt những xu thế thời đại, phát huy vai trò tiên phong đóng góp cho phát triển đất nước và đây cũng chính là những yếu tố sẽ định hình sự nghiệp, cơ hội và cuộc sống của giới trẻ. Thời đại thông minh không chỉ là một khái niệm trừu tượng, đó là một thực tế mà những người trẻ tuổi của Việt Nam sẽ sống, lao động và học tập trong đó.

Tại Việt Nam, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đồng thời cũng là sự vận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng này vào hiện thực cuộc sống mà chúng ta đã tiến hành “Chuyển đổi số”, tức là quá trình thay đổi từ mô hình hoạt động truyền thống sang mô hình hoạt động dựa trên quá trình “số hóa” bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big data), Internet cho vạn vật (loT), điện toán đám mây (Cloud)… nhằm thay đổi phương thức quản lý, điều hành, lãnh đạo; quy trình làm việc và văn hóa cộng đồng cũng như làm thay đổi các quá trình sản xuất của xã hội .

Khi nhận thức được thời cơ và thách thức mới do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, từ thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước trong bối cảnh mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo”.

Nhận thức rõ bối cảnh này, trên cơ sở tổng kết tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và những kinh nghiệm rút ra từ những thành công và hạn chế của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là quá trình đổi mới đất nước gần 40 năm qua ở Việt Nam, vào ngày 2/9/2024, nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong bài viết “Chuyển đổi số – động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới” đã chỉ ra, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đang tất yếu phải chuyển sang giai đoạn hiện thực hóa và tiến hành triển khai “hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật, kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời không ngừng đổi mới để bắt kịp xu thế phát triển của thời đại. Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”… “Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới”. Và “dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại” . Theo tinh thần về kỷ nguyên mới này, để nhận diện và xác định rõ bản chất của kỷ nguyên mới này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh thông điệp “Đổi mới để bứt phá, vượt qua chính mình – Sáng tạo để vươn xa, bay cao trong bầu trời kỷ nguyên số và phát triển xanh của nhân loại” .

  1. Phương thức sản xuất số

Xét trên phương diện cách thức canh tác, cách thức sản xuất và cách thức sử dụng nguồn lực sản xuất (tài nguyên thiên nhiên, vốn tài chính, nguồn nhân lực, vốn xã hội, vốn dữ liệu .), nhân loại đã từng biết đến, đã và đang trải qua các phương thức sản xuất khác nhau. Thích hợp và tương ứng với giai đoạn phát triển của nhân loại trước khi có cuộc cách mạng công nghiệp nổ ra là phương thức sản xuất nông nghiệp. Phương thức sản xuất nông nghiệp được thể hiện ra thông qua việc lựa chọn mô hình phát triển dựa trên lợi thế so sánh, tức là áp dụng mô hình phát triển đất nước dựa trên sự ưu trội chủ yếu của sức lực cơ bắp và nguồn tài nguyên sẵn có. Tương ứng với giai đoạn phát triển của nhân loại bắt đầu từ khi có cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và kéo dài đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba là phương thức sản xuất công nghiệp. Phương thức sản xuất công nghiệp được thể hiện ra thông qua việc xác định và tạo lập mô hình phát triển dựa trên lợi thế so sánh và kỹ thuật, tức là triển khai mô hình phát triển đất nước vẫn dựa trên sự ưu trội của sức lực cơ bắp, nguồn tài nguyên sẵn có, vốn tài chính và có sự ứng dụng mạnh mẽ kỹ thuật-công nghệ vào quá trình sản xuất.

Kỹ sư Nhà máy Công nghệ cao Điện Quang, Công ty cổ phần Bóng đèn Điện Quang, kiểm tra dây chuyền sản xuất chip led.

Phương thức sản xuất số là phương thức sản xuất tương thích và được hình thành bắt đầu từ khi có cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phương thức sản xuất số được thể hiện ra thông qua việc kiến tạo mô hình phát triển mới cho xã hội – mô hình phát triển dựa trên lợi thế kinh tế tri thức (trí tuệ nhân tạo), tức là thực thi mô hình phát triển đất nước dựa trên sự tích hợp của trí tuệ nhân tạo, khoa học và công nghệ, của công nghệ số hóa và vốn dữ liệu vào quá trình sản xuất.

Nhận thức rõ vị thế quan trọng bậc nhất của phương thức sản xuất số đối với kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra, Việt Nam đang tất yếu phải chuyển sang giai đoạn hiện thực hóa và tiến hành triển khai thực hiện một phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất số, để bắt kịp, tương thích và đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. “Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế-xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại – “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số” . Mục đích của việc thực thi phương thức sản xuất số này chính là “cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy sức mạnh của lực lượng sản xuất hiện đại, vừa đảm bảo bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời đại mới” .

Để nhận diện rõ về phương thức sản xuất số, xin nêu một số đặc trưng chủ yếu để hình thành và vận hành phương thức sản xuất số:

Chủ thể lao động (sức lao động) phải có tư duy số

Tư duy số được tạo dựng và vận hành dựa trên sự hoạt động song trùng giữa trí tuệ con người và trí tuệ nhân tạo. Trước đây, trong bối cảnh có sự chi phối của hoạt động, vận hành theo bối cảnh cũ, – bối cảnh truyền thống, mô thức tư duy của chúng ta cơ bản là hoạt động theo số lượng, theo tuần tự, theo thứ bậc dẫn đến phương thức hoạt động theo hình thức, theo quán tính là chủ yếu thì quá trình tư duy trong bối cảnh cũ thường là theo kinh nghiệm, thói quen, thậm chí là theo cảm tính, tức là theo tính thường biến của tư duy. Còn bối cảnh hiện nay, thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đã mang lại bản chất đột phá cho mọi sự phát triển đòi hỏi các hoạt động của con người đều phải phi truyền thống, không tuần tự, không thứ bậc và phải đột biến theo chất lượng; đặc biệt phải tìm cách sử dụng khả năng sáng tạo để vượt qua mọi giới hạn . Có thể nói rằng, tư duy sáng tạo là cốt lõi cho sự phát triển của xã hội thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tư duy sáng tạo là khả năng tư duy đột biến nhằm tìm ra những phương án, cách tiếp cận mới cho vấn đề đang đặt ra. Tư duy sáng tạo giúp xã hội có khả năng đẩy ranh giới ra khỏi sự bình thường mà mọi người quen nghĩ để tìm ra cái mới, điều mới chưa từng có trước đó. Và trong thời đại hiện nay, bất kỳ ngành nghề nào như chính trị, xã hội, kinh tế, nghệ thuật, kỹ thuật… đều cần đến tư duy sáng tạo.

Công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trở thành lực lượng sản xuất chính

+ Công nghệ số là quá trình chuyển đổi từ mô hình truyền thống sang mô hình số, thông qua việc áp dụng các công nghệ số như AI, Big data, loT, Cloud, blockchain,… nhằm thay đổi phương thức điều hành, quản lý quy trình làm việc cũng như văn hóa doanh nghiệp. Công nghệ số là một xu thế tất yếu của thời đại. Nó đang và sẽ tiếp tục thay đổi cách chúng ta sống, làm việc, học tập và giải trí. Các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân cần phải có kiến thức, kỹ năng nhằm nắm bắt và ứng dụng công nghệ số một cách hiệu quả để có thể bắt kịp với xu thế và phát triển bền vững, không ai bị bỏ lại phía sau.

+ Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence): Theo IBM (công ty tin học lớn nhất thế giới): “Trí tuệ nhân tạo (hay AI), là công nghệ cho phép máy tính và máy móc mô phỏng trí thông minh và khả năng giải quyết vấn đề của con người”.

Với bản chất sáng tạo không giới hạn, trí tuệ nhân tạo có những ưu điểm vượt trội, như độ chính xác cao; tiết kiệm thời gian và tăng năng suất; xử lý hiệu quả tác vụ nặng về dữ liệu; cá nhân hóa tương tác; đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu và phát triển; tối ưu hóa quy trình; bảo đảm tính bền vững và bảo tồn về môi trường; giúp làm việc trong môi trường nguy hiểm… Cùng với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ AI đã, đang và sẽ được áp dụng mang tính hiệu quả quyết định trong trong sản xuất, đời sống và trong toàn bộ sự vận hành của xã hội. Theo PwC (Công ty Kiểm toán hàng đầu thế giới), đóng góp của AI cho kinh tế thế giới vào năm 2030 lên đến gần 15.800 tỷ USD, trong đó gồm 6.600 tỷ USD nhờ thúc đẩy tăng năng suất .

Dữ liệu lớn (Tiếng Anh: Big data) là một thuật ngữ cho việc xử lý thông minh, tiêu biểu cho tập thông tin mà đặc điểm nổi bật là: khối lượng lớn (Volume), tốc độ cao (Velocity), đa dạng (Variety) và vận hành trên cơ sở máy học thông minh (Machine Learning), dấu ấn kỹ thuật số (Digital footprint). Để có được và sử dụng được dữ liệu lớn đòi hỏi phải có phương thức phân tích và công nghệ riêng biệt để biến nó thành có giá trị .

Sở hữu tài sản số

Trong kỷ nguyên số, bên cạnh việc sở hữu những tài sản truyền thống (tài sản hữu hình: tư liệu sản xuất vật chất, tài nguyên thiên nhiên, vốn tài chính,.), thì việc xuất hiện và sở hữu tài sản số đang trở thành xu thế chủ yếu. “Tài sản số là tài sản vô hình, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao, xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử” . Theo các chuyên gia, “tài sản số đang nổi lên như một yếu tố chủ chốt định hình lại hệ thống tài chính toàn cầu. Tài sản số bao gồm những tài sản tồn tại dưới dạng kỹ thuật số và được xác nhận quyền sở hữu bằng công nghệ chuỗi khối (blockchain). Điều này bao gồm tiền mã hóa (cryptocurrency), mã chứng khoán (security tokens), mã tiện ích (utility tokens), NFTs (mã không thể thay thế) và nhiều loại tài sản số khác. Các tài sản này không chỉ là những phương tiện giao dịch, mà còn đại diện cho quyền sở hữu và truy cập đến các dịch vụ, sản phẩm cụ thể trong hệ sinh thái kỹ thuật số”.

Thiết bị 5G do người Việt Nam sản xuất đã được Bộ Thông tin và Truyền thông kiểm định và cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng.

Quản trị bằng thể chế số

Quản trị sản xuất trong phương thức sản xuất số được thực hiện thông qua thể chế số.

Thể chế số là thể chế phát triển mà thực chất là: “Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”…; bảo đảm linh hoạt trong điều hành;… Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh.) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo” . Rõ ràng, “chuyển đổi số thì cần thể chế số. Thể chế cho chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Thể chế số thì cần vừa theo kịp vừa kiến tạo phát triển. Cách mạng chuyển đổi số thì chủ yếu là cách mạng về thể chế” .

Như vậy, dưới sự tác động và lan tỏa mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những dấu hiệu đặc trưng cho lực lượng sản xuất số và quan hệ sản xuất số đã hiện diện như trên đã đề cập thì phương thức sản xuất số trên phạm vi toàn thế giới đã vận hành và như một kết quả tất yếu là, ở Việt Nam cũng đã và đang hình thành phương thức sản xuất số.

  1. Một số kiến nghị

Để kỷ nguyên số hình thành và định vị được ở Việt Nam, theo chúng tôi cần quan tâm và tập trung tạo dựng, triển khai một số công việc sau:

Một là, phải hình thành hệ sinh thái kỷ nguyên số

Như một tất yếu, để cho bất cứ sự vật, hệ thống hoạt động hay thời kỳ phát triển nào có thể hình thành và vận hành được thì đòi hỏi phải có hệ sinh thái tương thích làm cơ sở và tạo điều kiện cho nó. Để có thể hình thành được kỷ nguyên số thì điều hiển nhiên là phải có được hệ sinh thái kỷ nguyên số, xem đây là cơ sở tiên quyết, là điều kiện cần và đủ bảo đảm cho sự xuất hiện kỷ nguyên số, đồng thời đây cũng là hệ tiêu chí cơ bản để nhận diện kỷ nguyên số. Từ cách tiếp cận của mình, chúng tôi cho rằng, hệ sinh thái kỷ nguyên số là hệ thống chỉnh thể các yếu tố, thể chế và thiết chế cũng như các điều kiện cần thiết bảo đảm cho kỷ nguyên số hình thành và vận hành một cách bình thường. Theo đó, hệ sinh thái kỷ nguyên số phải bao gồm ít nhất những yếu tố và điều kiện sau: Phương thức sản xuất số; chủ thể số (chính phủ số, doanh nghiệp số, công dân số,…); thể chế và thiết chế số; chiến lược phát triển số; nguồn lực số; tài sản số; tư duy số; khát vọng số; văn hóa số.

Hai là, hiện thực hóa chuyển đổi số

Để bắt kịp và hòa nhập với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển lực lượng sản xuất số và hình thành kỷ nguyên số, Việt Nam phải tích cực và chủ động tiếp cận và triển khai chuyển đổi số quốc gia. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra: “Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh” . Muốn vậy, phải “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” . Bởi vì, “đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới” .

Ba là, hình thành vốn dữ liệu

Như trên đã trình bày, dữ liệu là nguồn lực vô tận và là một yếu tố đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành phương thức sản xuất số. Theo các chuyên gia “Để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, cần chuyển đổi nền tảng từ “vốn tài chính” (capital) sang “vốn dữ liệu” (data-capital), chuyển hóa những quan hệ/phương thức sản xuất truyền thống sang quan hệ/phương thức sản xuất mới một cách hợp lý, hiệu quả và thành công” . Như vậy, hình thành và vận hành được vốn dữ liệu chính là tạo cơ sở để có tư duy mới nhằm hướng tới một hình thái tổ chức xã hội mới, mà ở đó, trí tuệ nhân tạo, công nghệ cao, công nghệ số là động lực; xã hội số là nền tảng dẫn động và tiến trình này sẽ định hướng cho chuyển đổi số tổng thể; nhờ đó, làm xuất hiện và vận hành phương thức sản xuất số.

Bốn là, tạo lập khát vọng số

Bất cứ một chủ thể hay một hệ thống hoạt động nào đó muốn tạo lập, định hình và vận hành tiến lên thì phải tìm ra và kích hoạt được động lực phát triển. Động lực chính là quá trình khởi tạo, nhân lực đẩy nhằm dẫn dắt và duy trì một cách có mục đích cho sự vận động của các chủ thể hoặc hệ thống đang hoạt động. Đối với chủ thể con người và hệ thống hoạt động xã hội thì động lực thúc đẩy chính là khát vọng phát triển. Khát vọng phát triển là động lực to lớn tạo sức đẩy phát triển cho tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nhận thức rõ về động lực khát vọng phát triển đất nước trong thời đại mới, – thời đại số, Đại hội XIII của Đảng đã yêu cầu, phải “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc;… tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước” . Kích hoạt được khát vọng phát triển chính là nhằm “khơi dậy động lực, tinh thần cống hiến vì đất nước, khơi thông mọi nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nhân dân” .

Mỗi phương thức sản xuất, mỗi thời đại đều định hình và yêu cầu khác nhau về khát vọng phát triển cho tương hợp với thời đại mình. Phương thức sản xuất số và thời đại số phải có khát vọng số. Khát vọng số ở Việt Nam trong phương thức sản xuất số và trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc chính là khát vọng vươn tới “tiên tiến, văn minh, hiện đại”. Đây là sự cộng hưởng khát vọng vươn lên của cộng đồng, của con người cùng quốc gia, dân tộc, của từng công dân, của chủ thể lao động, sản xuất tạo thành nguồn năng lượng nội lực to lớn, tiềm tàng, có sức mạnh vô song và đột phá cho toàn bộ công cuộc phát triển. Đó cũng chính là động lực trung tâm của một quốc gia – dân tộc trên con đường đi tới tương lai trong kỷ nguyên số.

Năm là, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phương thức sản xuất số, kỷ nguyên số

Các khái niệm mới về phương thức sản xuất số, về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đã thể hiện và minh chứng cho sự đột phá về nhận thức, về tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và dĩ nhiên, khi có nhận thức mới, tư duy mới, quan điểm mới thì tất yếu cần phải có cách tiếp cận mới, hành động mới và cách giải quyết mới. V.I. Lê-nin đã chỉ ra: “Khi tình hình đã thay đổi thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua” . Bởi vậy, để thống nhất được nhận thức và hiện thực hóa được phương thức sản xuất số, kỷ nguyên số (kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc) thì một hoạt động không thể thiếu là tuyên, nâng cao nhận thức về phương thức sản xuất số, kỷ nguyên số. Ở đây, “Công tác tuyên truyền phải có bước đi, lộ trình, phân vai cụ thể, đúng lúc, đúng chỗ, truyền đạt chính xác, hiệu quả đến mọi người dân, tạo ra trận địa truyền thông có lợi nhất, đạt đồng thuận cao của nhân dân, để dân hiểu, dân tin, dân nắm vững, dân nhất trí, dân quyết tâm thực hiện các mục tiêu, quan điểm, định hướng, nhiệm vụ lớn về xây dựng và phát triển đất nước, tuyệt đối không để hiểu sai về cái đúng, hiểu xấu về cái tốt, cái đẹp” .

Tóm lại, hơn lúc nào hết, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã bước vào giai đoạn cách mạng có tính bước ngoặt với việc xuất hiện phương thức sản xuất số, kỷ nguyên số. Đây vừa thời cơ, vận hội và là những thách thức đang đặt ra; đồng thời, cũng là sự định hướng và là trách nhiệm của cả dân tộc Việt Nam nhằm tham gia vào việc hiện thực hóa và triển khai vận hành phương thức sản xuất số, kỷ nguyên số ở Việt Nam./.

Nguồn: nhandan.vn

Tin cùng chuyên mục

Tăng tốc, bứt phá, góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới

Sáng 10/2, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị Thường trực Chính phủ gặp gỡ doanh nghiệp về nhiệm vụ, giải pháp để doanh nghiệp tư nhân tăng tốc, bứt phá,...

Khai mạc triển lãm ảnh 95 năm tự hào Đảng ta

Ngày 24/1, Ban Tổ chức Kỷ niệm các ngày lễ lớn Thành phố Hồ Chí Minh khai mạc triển lãm ảnh “95 năm – Tự hào Đảng ta” tại Công viên Lam Sơn (quận 1). Đây là hoạt động chào mừng kỷ...

Báo chí đã làm tốt công tác tuyên truyền các định hướng lớn của Đảng về “Kỷ nguyên mới”

Tối 20/1, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đến dự và có bài phát biểu tại Lễ trao Giải Báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng  (mang tên Búa liềm vàng) lần thứ IX – năm 2024. Xin trân trọng giới thiệu...

Người dân vững tin vào tương lai đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, ghi dấu ấn đậm nét trên trường quốc tế. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng...

Vị thế và niềm tin

Với những thành tựu sau gần 80 năm lập nước, gần 40 năm đổi mới, với thế và lực đã tích lũy được đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ, vận hội...

Có thể bạn quan tâm

Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm tổ chức triển lãm kỷ niệm 70 chiến thắng Điện Biên Phủ

Triển lãm kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024) do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm tổ chức tại Nhà triển lãm 29 Hàng Bài, Hoàn Kiếm,...

Mạn đàm nghệ thuật bìa sách Việt Nam 2022

  Theo báo vietnamnet công bố thì năm 2020 đã có 410 triệu bản sách được phát hành với 33.000 đầu sách, và doanh thu đạt 2.700 tỷ đồng. Nếu tính nhiều năm qua cộng lại, thì số lượng phải...

Chính thức ra mắt Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật (ĐHQGHN)

(Chinhphu.vn) – Việc chuyển đổi thành Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật với các chức năng và nhiệm vụ chính là tổ chức và triển khai các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học...

Cầu đi bộ biến thành không gian nghệ thuật

NDO – Cầu dành cho người đi bộ trên phố Trần Nhật Duật, quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) đã được trang trí thành không gian nghệ thuật ánh sáng với chủ đề “Nước”, thu hút sự quan tâm của...

Ban Thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam thăm và chúc mừng Tạp chí Mỹ thuật nhân kỷ niệm 99 năm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam

Sáng ngày 21/6/2024, Ban Thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam gồm Chủ tịch, họa sĩ Luơng Xuân Đoàn; Phó Chủ tịch Thường trực Mai Thị Ngọc Oanh cùng lãnh đạo các đơn vị, cơ quan trực thuộc đã...

Khai mạc Triển lãm thành quả Trại sáng tác và Sáng tác mới 2023 tại Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM

SGGP – Sáng 16-8, Hội Mỹ thuật TPHCM cùng Bảo tàng Mỹ thuật TPHCM khai mạc triển lãm “Thành quả Trại sáng tác và Sáng tác mới 2023”. Đây là hoạt động thường niên của Hội Mỹ thuật TPHCM...