Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2001
Tên đầy đủ là Nguyễn Văn Khang.
Người Hà Nội.1930-1935, ông học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, khóa 6. Ngay từ 1932-1934, đã có nhiều đóng góp quan trọng cho bước khởi đầu của hội họa sơn mài, đặc biệt trên phương diện cải tiến chất màu.
Sau khi tốt nghiệp, trong suốt 10 năm (1935-1945), các tác phẩm sơn mài của ông đã được đánh giá cao và giành nhiều giải thưởng tại các cuộc triển lãm ở trong nước (SADEAI, Salon Unique) và ở nước ngoài (Pháp, Mỹ, Ý, Bỉ) như “Đất nước” (1939),
“Vẻ đẹp Mường” (1940), “Gội đầu dưới trăng” (1940), “Ông nghè vinh quy (1942), BTMTVN), điển hình là “Đánh cá đêm trăng” (1942-1943, BTMTVN) hoặc “Cây bạc” (1942-1943). Ông đã từng sang Pháp tham dự Đấu xảo Paris 1937. 1945, ông tham gia cách mạng ở Hà Nội, hưởng ứng các cuộc biểu tình của giới công chức, vẽ tranh tuyên truyền cổ động Tổng khởi nghĩa.


Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động trong Đoàn Văn hóa Kháng chiến, đi nhiều chiến dịch lớn, ghi nhiều ký họa. Về mỹ thuật “ứng dụng”, 1950, cùng Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cần trang trí nội thất cho Khu Giao tế Chính phủ kháng chiến ở Thái Nguyên.
Hòa bình lập lại, ông có nhiều dịp đi tham quan, sáng tác ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa và ở Hồng Kông, Nhật Bản, tiếp thu được một số kỹ thuật làm gốm và đồ sơn. Hội viên sáng lập, ủy viên Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam khóa 1 (1957-1983).
1968-1969, ông đã được giao nhiệm vụ thực hiện công tác chuẩn bị và sau đó được cử làm trưởng ban thiết kế trang trí mỹ thuật phục vụ tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Từng tham gia giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Việt Nam ở Chiến khu Việt Bắc và Khu học xá Việt Nam ở Trung Quốc (1951), từ 1962, ông giữ cương vị hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Công nghiệp Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu.
Nghệ thuật sơn mài của ông sớm đi vào lối thể hiện giản dị và ngày càng xa rời thuật công bút đồ họa mỹ nghệ, nhưng vẫn giữ lại những yếu tố triết lý của nghệ thuật thủ công dân gian xa xưa. Ông vẽ như một nhà thơ “mới” trữ tình pha lẫn tính “cổ phong” – mà trong một thời kỳ khá dài (1958-1974) đã tiếp cận thành công khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa bằng sự nhạy bén trong cảm nhận về giá trị độc lập của “đề tài”: Hồ Chủ tịch với nông dân (1958), Hòa bình hữu nghị (1958), Hành quân qua Tây Bắc (1960, BTMTVN), Đóng thuế nông nghiệp (1962, BTMTVN).
Ở thời kỳ sáng tác cuối cùng, ông chuyên tâm thể hiện những Đánh cá trước đêm trăng 2 (1986), Có cứng mới đứng trước gió (1986), Những người cưỡi ngựa (1987) –như để tiếp tục cuộc hành trình đi tìm cái đẹp vĩnh cửu qua những điển tích và giai thoại.
Ngoài sơn mài, ông còn vẽ tranh lụa, nghiên cứu và thiết kế mẫu đồ gốm.
Quang Viet
Trích “Từ điển họa sĩ” của Nhà xuất bản Mỹ thuật 2008