Nửa ngày với “Người đàn bà Thép”, cùng “Gánh gánh gồng gồng”, “Khắc đi, khắc đến”

“Chào con, mong sớm gặp con. Cô rất nhớ món khoai lang bở ăn trừ cơm của Gò Gai 70 năm trước. Những năm đói khổ từng được đất Phú Thọ cưu mang không thể nào quên. Con cố mang cho cô một ít để nhớ về những ngày ấy”.

Từng đi nhiều mặt trận khắp miền Trung, Việt Bắc, Hà Nội, từ chiến sĩ quân giới, người chế tạo thuốc nổ,Y sĩ, bác sĩ, phóng viên chiến trường, phiên dịch viên, đạo diễn phim tài liệu đến một nhà sưu tập hay chủ phòng  tranh. Có thể nói cuộc đời bà như tổng hợp của những lát cắt, khắc họa sinh động những trang sử hào hùng oanh liệt của dân tộc trong thế kỉ 20 chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử như vua Bảo Đại đại diện vương triều cuối cùng trao ấn kiếm, có mặt chứng kiến chính quyền Việt Nam cộng hòa rời khỏi dinh Độc Lập… Tác giả của “Gánh gánh gồng gồng” cuốn hồi kí giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh năm 2020. Mới đây là “Khắc đi ,Khắc đến” NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2024.

Thú thực trước đây tôi cũng từng nghe nói về bà, khi bà là nhà sưu tập đặc biệt đã mua cả phong tranh của họa sĩ Trương Đình Hảo tại Triển lãm 16 Ngô Quyền -Hà Nội. Công việc bận rộn cuốn hút khiến tôi không thể để tâm nhiều. Gần đây tình cờ một lần đọc được bài báo “Đạo diễn Xuân Phượng “Người đàn bà thép” của hội họa Việt Nam, đặc biệt khi tiếp cận cuốn hồi kí “Gánh gánh gồng gồng”, chỉ vài chục trang đầu của cuốn sách đã khiến tôi hoàn toàn bị ám ảnh và xúc động mạnh, hết kính nể lại đến ngưỡng mộ nhân vật nữ xưng tôi trong cuốn sách, đan xen cả niềm tự hào, lòng xót thương và sự căm giận những bất công mà nhưng kẻ đạo đức giả, vô cảm, đớn hèn đã gây cho bà.Tôi nẩy ra ý định quyết gặp bà một lần, muốn được trực tiếp nghe bà nói sẽ rất thú vị.Vì chắc rằng cuộc đời đầy gian truân của một lão bà gần trăm tuổi, sống vắt qua hai thế kỉ sẽ có vô vàn thứ không có trong cuốn sách, cũng như muốn học được điều gì đó từ kinh nghiệm sống của bà, chuyện đời, chuyện văn chương, nghệ thuật…Đặc biệt muốn biết thêm những kỉ niệm của bà ở chiến khu Việt Bắc, ở Phú Thọ quê tôi, mà qua cuốn sách tôi được biết. Bà từng vượt cạn sinh đứa con đầu lòng vào một đêm giá rét, tuyệt vọng trong chiếc thuyền nan trên bến sông Lô quê tôi. Từng cực nhọc gồng gánh những đứa con của mình, cùng đồ đạc từ An toàn khu về Hà Nội, đi qua cổng nhà tôi bên quốc lộ 2 từ 1954. Khi ấy con đường rừng núi còn nhỏ hẹp, rậm rạp và có nhiều thú dữ, trước 6 năm khi tôi được sinh ra. Để rồi hy vọng có thể viết cái gì đó về người đàn bà rất đặc biệt này.

Thầm nghĩ một người như bà không thể, không sử dụng zalo, facebook quả nhiên vậy. Qua tin nhắn Mesenger tôi tự giới thiệu và nhận được hồi âm: “Chào con, mong sớm gặp con. Cô rất nhớ món khoai lang bở ăn trừ cơm của Gò Gai 70 năm trước. Những năm đói khổ từng được đất Phú Thọ cưu mang không thể nào quên. Con cố mang cho cô một ít để nhớ về những ngày ấy”. Tôi rất vui vì tin nhắn này của bà. May thay đúng dịp đáp máy bay vào Tp Hồ Chí Minh, để  dự một trại sáng tác của VHNT Phú Thọ tại Vũng Tàu. Trước ngày khai mạc trại tôi đã tranh thủ ghé thăm bà như đã hẹn, cùng với túi khoai bở Gò Gai. Vui vẻ đón tiếp tôi người đàn bà ở tuổi 95 luôn  niềm nở, đặc biệt bà rất minh mẫn và hào sảng.

Dâng hiến tuổi thanh xuân cho cách mạng

Đạo diễn – nhà văn Nguyễn Thị Xuân Phượng sinh năm 1929, quê làng Nham Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong một gia đình trí thức trung lưu quyền quí.Thuở nhỏ theo cha một quan đốc học, học tiểu học tại Đà Lạt, rồi học trường Pháp ngữ- Tu viện Bồ câu trắng ( một trường học của Pháp dành cho con em người Pháp tại Đông Dương và các gia đình quyền quí người Việt, người Lào và Căm Pu Chia). Năm 16 tuổi (1945) bà bí mật thoát ly gia đình, xếp bút nghiên lên đường tranh đấu giành độc lập cho đất nước. Tại thời điểm này, không ai, kể cả gia đình có thể hiểu được tại sao một cô gái trẻ lại khăng khăng liều mình đến thế. Sau nhiều năm dấn thân vào con đường cách mạng, bà được giao trọng trách tiếp xúc, làm việc với 1 tổ Pulmynate (thuốc làm kíp nổ) mà không biết rằng từ đó, mình sẽ trở thành một trong 3 người phụ nữ Việt Nam đầu tiên chế tạo ra thuốc nổ.

Bà Xuân Phượng tặng sách cho hoạ sĩ – nhà báo Đỗ Ngọc Dũng.

Bà Xuân Phượng trò chuyện với họa sĩ, nhà báo Đỗ Ngọc Dũng.

Bìa 2 cuốn sách của tác giả Xuân Phượng.

Năm 1968, sau những chuyến đi cùng đoàn làm phim nước ngoài đến các mặt trận, bà từ bỏ công việc y sĩ trong phòng quốc tế của khách sạn Thống Nhất, cương quyết chuyển ngành thành một phóng viên chiến trường. Bà Xuân Phượng đã đánh đổi cả một tương lai ổn định, một công việc với mức lương cao, để gắn bó với một công việc có lương khởi điểm như người lao công. Hay như chia sẻ của bà, đó là: “Bỏ một sự an toàn tương đối, lấy một cái chết bảy mươi phần trăm. Nhưng con người ta chỉ sống có một lần trong đời. Cuộc đời tôi sống khi làm phim chiến trường, khổ thì rất nhiều, nhưng phải nói những điều vui sướng và tự hào cũng không ít đâu.”

Mấy ai biết, bà Xuân Phượng từng thực hiện hàng loạt phim tài liệu nổi tiếng như: “Việt Nam và chiếc xe đạp” (giải Bồ câu bạc LHPQT1974), “Tôi viết bài ca hồi sinh” (giai chính thức LHPQT Leipzig1979), “Khi tiếng súng vừa tắt” (giải chính thức của BGK LHPQTLeipzig1975), “Khi những nụ cười trở lại” (giải Bồ câu bạc LHPQT1976)… Bà cũng một trong những phóng viên đầu tiên vào Dinh Độc lập theo trung đoàn xe tăng vào ngày 30/4/1975. Có thể thấy, bà Xuân Phượng là hình ảnh sống của những người lính, người chiến sĩ cách mạng kiên cường, bất khuất, không ngại khó khăn, gian khổ và sẵn sàng hy sinh mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Hồi ký “Gánh gánh gồng gồng” – những lát cắt lịch sử

Ra mắt bạn đọc năm 2020, cuốn hồi ký đã gây một tiếng vang trên  văn đàn được nhận kép 2 giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Tái bản đến 7 lần, với gần 30 ngàn bản in, cuốn sách như một trang tự sự về cuộc đời người phụ nữ đã cùng đất nước đi qua những giai đoạn khốc liệt nhất của chiến tranh. Là chuỗi ký ức đan xen giữa quá khứ và hiện tại, tác phẩm đã tái hiện một chặng đường lịch sử dân tộc đầy biến động thông qua những câu chuyện đời thường. “Tháng 7 năm 1989, tôi gặp mẹ mình và các em tại sân bay Charles de Gaulle Paris. Gia đình đã bay từ Mỹ sang thăm vì tôi chưa có thị thực vào Mỹ. Chúng tôi cười cười khóc khóc trong niềm vui đoàn viên.

Trong một bữa cơm trưa, bỗng mẹ tôi chống đũa nhìn tôi: “Con ơi, sao con theo họ làm chi để gia đình ly tán, phải rời quê cha đất tổ con ơi”… Tôi không trả lời mẹ ngay hôm ấy nhưng cũng từ  đấy nảy ra ý định phải kể lại đời mình. Tôi mong muốn gia đình thương yêu hiểu rõ thêm những gì tôi đã trải qua. Và cũng vì những người trẻ chưa hề biết đến chiến tranh, tôi quyết định viết lại đời tôi”. Và đó chính là: “Gánh gánh gồng gồng” cuốn hồi ký ám ảnh, xót xa và bi hùng một phần của lịch sử dân tộc, đầy ắp những sự kiện được viết bởi một giọng văn gọn gẽ, nhẹ nhàng, khúc triết và hấp dẫn. Những câu chuyện như những lát cắt của quá khu hiện về sống động. Là những tháng năm gian khổ thiếu thốn trăm bề, ăn bờ ngủ bụi ở Quân y vụ liên khu Bốn, ở Nha nghiên cứu kỹ thuật chế tạo thuốc nổ trên miền rừng Việt Bắc heo hút gió rét, đối diện với cái chết bất cứ lúc nào; là sinh đứa con đầu lòng cô đơn tuyệt vọng, trong đêm giá rét trên chiếc thuyền nan vượt sông Lô thời chống Pháp; là những ngày làm báo vất vả ngược xuôi ở Tuyên Quang; là những ngày ở nhờ nhà em chồng chịu bao tủi nhục, kinh rẻ, bất công khiến cho bất cứ ai khi đọc cuốn sách phải dớm lệ, phẫn uất thay cho bà ngày ấy. Bà đã nhắc lại điều này mà như thể thật khó khăn, nặng lòng: “Để cho nhẹ lòng và cũng chỉ muốn nhắc lại một lần cuối cùng… Nhưng tôi đã nghẹn ngào, cay đắng khi viết đến những dòng này. Không quên được”.

Đoàn làm phim Vĩnh Linh. Từ trái sang, Đào Lê Bình và con – Marceline – Joris Ivens – Xuân Phượng – Bùi Đình Hạc

Bà Xuân Phượng thăm lại Nha Nghiên cứu kỹ thuật quân giới xã Cấp Tiến, Sơn Dương, Tuyên Quang tháng 12/2022.

Các cháu ở vườn trẻ Lê Phụng Hiểu năm 1980.

Người đàn bà bé nhỏ từng ra tuyến lửa Vĩnh Linh, đối diện với cái chết trong đoàn làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17, chiến tranh nhân dân” của đạo diễn nổi tiếng thế giới Joris Ivens, từng đỡ đẻ dưới lòng địa đạo trên đầu là bom cày, đạn xới. Để sau đó như đáp lại sự mong muốn của đạo diễn Joris Ivens, bà đã làm cuộc cách mạng của đời mình, trở thành một đạo diễn phim tài liệu uy tín. Từng ở núi rừng Việt Bắc trong chiến tranh và đói rét. Người đàn bà ấy từng là công dân thủ đô, trong khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu, sống trong nghèo khó của thời bao cấp…

Mái tóc trắng, đôi mắt hóm, miệng cười tươi,  bằng những cử chỉ nhỏ nhẹ thân thiện cuốn hút. Bà kể cho tôi nghe thêm những tháng ngày ở Gò Gai-Phú Thọ, trong đơn vị pháo binh năm 1952, cùng những đói rét, cực nhọc. Nhưng được người dân Phú Thọ đùm bọc, từng củ khoai, củ sắn ngày ấy mãi là những kỉ niệm khó quên. Bà thích nhất là những củ  khoai bở rất ngon thường ăn thay cơm ngày ấy, rồi nhớ những đồi chè xanh nhấp nhô của đất trung du.Nhớ về những lần ghé thăm Đền Hùng, thắp hương cầu xin Tổ tiên phù hộ che chở..

Kể về những trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng cùng thời: Trần Đình Thảo, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Sáng, Phạm Văn Khoa, Nguyễn Quang Sáng, Phan Vũ, ,Nguyễn Tuân…những người từng vào sinh ra tử Phạm Khắc Lãm, bà nhắc về bạn chiến đấu Nguyễn Tăng Hích- tức nhạc sĩ Trần Hoàn, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, nguyên Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam. Tôi từng được ông quí mến, ủng hộ khi là Chủ tịch Hội VHNT Phú Thọ. Ông mất nam 2003 khi vào Vũng Tàu bế mạc một trại sáng tác. Xúc động trước sự ra đi của ông tôi đã có bài viết tưởng nhớ về người nhạc sĩ tài năng và đáng kính. Kể chuyện chồng bà, ông Nguyễn Phước Hoàng đại tá quân đội, giòng dõi Hoàng tộc Huế theo cách mạng, luôn tận tụy hy sinh tình cảm gia đình cho cách mạng, từng đánh trận Đồi A1. Sau này là Chủ nhiệm khoa tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Ông đã từng không đồng ý khi bà quyết định vào Sài Gòn mở phòng tranh Lotus. Minh chứng là 5 năm sau ông mới vào Sài Gòn sống cùng bà. Chuyện về ông Nam người yêu đầu đời của bà,   Nghe tin bà lấy chồng từng đạp xe từ miền Trung, lên tận lán trại đơn vị bà ở ATK Tuyên Quang trong một đêm tối. Rồi chuyện những tiếng gõ cửa ám hiệu, chỉ có hai người mới biết được…

Cuốn hồi ký 300 trang in, nhưng lại mang trong nó sức nặng của một chứng nhân lịch sử. Chúng ta sẽ bị choáng ngợp bởi một dung lượng đồ sộ, một kho tàng truyện lôi cuốn, sâu sắc nhuốm đầy màu bi thương, sen lẫn niềm tự hào. Hồi ký chứa đựng những tư liệu quý giá mà chúng ta chưa từng bắt gặp ở một cuốn sách nào khác. Những sự kiện dù diễn ra cách đây vài thập kỷ, lại được tái hiện rõ nét, chân thật và đầy xúc động như mới hôm qua. Bởi lẽ, những người như bà đã trải qua mưa bom, bão đạn những ký ức đó đã ăn sâu vào tâm trí, không thể nào quên được. Trong câu chuyện bà đã xúc động chia sẻ:  “Khi tôi đứng trên một gò đất cao, anh em tôi bỗng bảo Chị Phượng coi chừng. Tôi nhìn xuống thì thấy xương, xương người rải rác trên đống đất. Tôi vội vàng nhảy xuống, lấy đất đắp lên. Bởi vì đấy là mồ của người lính bị bom đạn, chết và không kịp vùi. Thời gian làm phần đất dần xói mòn, mình đã đứng lên xương đồng đội mình mà không biết”.

“Gánh gánh gồng gồng” một tác phẩm văn học đích thực, được viết bằng một văn phong chuẩn xác, cô đọng, đầy hình tượng và tinh tế. Thật tài tình khi không hề thấy dài dòng vụn vặt. Nhiều đoạn khi đọc thấy tác giả rẽ sang một câu chuyện khác, hoặc lại nói đến chuyện sẩy ra mấy chục năm sau nhưng vẫn rất logich ăn nhập, khép lại rồi lại mở ra, thủ pháp đồng hiện thật khéo léo hấp dẫn. Không chỉ dừng lại ở một hồi ký tự sự xúc động, mà “Gánh gánh gồng gồng” còn mang đến sứ mệnh, giúp thế hệ trẻ hiểu thêm về lịch sử dân tộc, gắn kết giữa quá khứ và hiện tại.

Tác giả bài viết với trợ lý Thắng và Ngọc Mai – người giúp việc của bà Xuân Phượng.

Khắc đi khắc đến -“Người đàn bà thép” đưa hội họa Việt Nam ra thế giới.

Nghỉ hưu năm 1988, với số tiền lương ít ỏi, bà Xuân Phượng không chấp nhận cảnh ở nhà lầm lũi mỗi ngày, bà quyết định sang Pháp sống bằng nghề dịch phim. Cũng tại đây, bà nhận ra rằng trong mắt người nước ngoài Việt Nam chỉ tràn đầy đau thương, chiến tranh, chết chóc và đói khổ. “Tại sao cứ để người ta thương hại mình như thế? Nước ta còn cả một nền văn hóa bốn nghìn năm kia mà” – bà kể.  Từ đó, bà có ý định mở một phòng tranh, mang sứ mệnh giới thiệu văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Đó chính là một tinh thần, một tấm lòng yêu nước mãnh liệt, ý thức tự tôn dân tộc. Quyết định của bà lần nữa vấp phải sự hoài nghi và ngăn cản của nhiều người. Tuy nhiên với quan niệm “người ta chỉ sống có một lần trên đời”, bà đã nỗ lực làm việc không mệt mỏi, để đem những giá trị văn hóa của người Việt vươn ra thế giới. Cùng với đó là thành lập phòng tranh Lotus nổi tiếng ở Sài Gòn. Từ đó mang lại cơ hội cho rất nhiều họa sĩ trẻ sáng tạo, và cống hiến hết mình.

Vào năm bà 85 tuổi, theo lời mời của Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Tây Úc, bà đã nhận lời tổ chức triển lãm tranh bên đó. “Chẳng có nơi nào đặc biệt như vùng đất này. Bên kia đường là rừng ngập mặn với những cây đước, bên này là sa mạc. Nước Úc còn có nhiều bảo tàng đẹp, mấy ngàn loài động vật hoang dã… Chính những điều này đã hấp dẫn tôi, nên tôi đồng ý tổ chức triển lãm tranh ở đó”, bà Xuân Phượng kể lại.

Khi bà vừa đặt chân xuống vùng đất này, một nhà báo của một tạp chí lớn ở Tây Úc đã đến phỏng vấn bà.

Trong nhiều câu hỏi về triển lãm tranh, nhà báo này hỏi thêm: “Thưa bà, tôi được biết bà là một phụ nữ 85 tuổi, mà sao bà dám đi từ Việt Nam sang Tây Úc – một vùng sa mạc hoang dã này để làm triển lãm tranh? Vì đối với nước tôi, những phụ nữ 85 tuổi chỉ về hưu, ngồi nhà và không làm gì!”.

“Tôi là một người chịu ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa Pháp. Tôi học trường Pháp từ bé, đọc rất nhiều sách của những nhà văn, nhà viết kịch Pháp. Trong đó có một nhà viết kịch Pháp mà tôi rất thú vị về cuộc đời của ông ấy từ lúc sáng tác đến lúc mất. Ông tên là Mô-li-e. Nhiều người nhắc ông lớn tuổi rồi nhưng ông vẫn lên sân khấu diễn. Hôm đó, lên sân khấu diễn thì ông thấy mệt, ít lâu sau ông mất. Tôi xem ông là tấm gương cho mình.Với tôi, được chết trong lúc đang làm việc là hạnh phúc, còn chết khi nằm trên giường bệnh là điều bất đắc dĩ không ai muốn. Cho nên tôi muốn làm việc đến lúc nào không thể làm việc được nữa” – đạo diễn Xuân Phượng trả lời.

Bà Xuân Phượng đáp từ khai mạc Triển lãm tại Tây Úc 2012.

Người yêu tranh Tây Úc đến với triển lãm tranh Việt Nam.

Đất trời, cha mẹ đã cho mình một cuộc đời. Điều này vô cùng quý báu. Mình ra đời không bị tật nguyền. Vậy phải sống làm sao cho cuộc sống thật có giá trị, xứng đáng với những gì mình đã được hưởng. Con người ta chỉ sống một lần trong đời, hãy sống sao cho thật xứng đáng.

Ngày 24 tháng 9 mới đây bà lại cho ra mắt cuốn sách thứ 3, “Khắc đi Khắc đến”(sau cuốn đầu tiên “Áo dài” viết bằng tiêng Pháp xuất bản tại Pais, đến “Gánh gánh gồng gồng”). “Khắc đi khắc đến”.Tái hiện chặng đường gây dựng và phát triển phòng tranh Lotus sang trọng từ 1991, biến nó thành một địa chỉ văn hóa nổi tiếng, một kênh giao lưu văn hóa quốc tế uy tín. Cùng hành trình các chuyến đi với nhiều họa sĩ mang văn hóa Việt Nam ra thế giới…điều thú vị cuốn sách viết trong hơn 20 ngày nhưng đầy ắp tư liệu và hấp dẫn. Trong 20 năm đi triển lãm tranh ở một số nước châu Âu, châu Á, châu Úc, châu Mỹ càng dầy dặn kinh, càng có thêm thành tựu. Nhưng phía sau nụ cười, thành công ấy là những chông gai, cạm bẫy rình rập. Gai nhọn hoắt bất ngờ đâm thẳng vào người, cạm bẫy khéo léo đưa mình vào tròng…

Trong rất nhiều trường hợp, nếu trong cuốn “Gánh ghánh gồng gồng” bà chỉ nhắc đậm trường hợp họa sĩ Trương Đình Hào, người mà bà đã về tận nhà riêng ở Bắc Giang để nhặt ra từ một căn nhà nát, mua toàn bộ những bức tranh của ông mà không ai biết đến, rồi đưa Trương Đình Hào cùng các tác phẩm của ông nhiều lần triển lãm ở nước ngoài trước sự ngăn cản của không ít các họa sĩ uy tín, nhưng bằng niềm tin và ý trí bà đã thành công ngoài mong đợi, làm thay đổi cuộc đời họa sĩ Trương Đình Hào.

Một góc hành lang triển lãm tại Paris.

Hoạ sĩ Mai Long biểu diễn tranh lụa tại Pháp.

Trợ lý Thắng và khách thăm triển lãm tại Paris năm 2012.

Ngày khai mạc triển lãm tại Lunéville, Pháp tháng 10/2003.

Thì trong “Khắc đi Khắc đến” bà đã nói kĩ hơn, hành trình gồng gánh đưa văn hóa việt nam ra thế giới, bà đã giúp cho rất nhiều họa sĩ, chủ yếu là sinh viên mới tốt nghiệp trường Mỹ thuật, từ vô danh nghèo đói đến có danh, có tiền bằng việc góp ý khuyến khích họ sáng tạo, mở triển lãm quảng bá, mang tranh họ, đưa họ ra nước ngoài triển lãm và tiếp cận với những nền hội họa tiên tiến tại các bảo tàng lớn…và đâu đó có cả những bài học đắt giá, như lời nhắc nhở nhân cách nghệ sĩ đối với giới mỹ thuật.

Sự dấn thân của bà đã được công nhận bằng Huân chương Bắc đẩu bội tinh do Chính phủ Pháp trao tặng năm 2011, vì những cuộc triển lãm tranh và đóng góp không ngừng nghỉ cho tình hữu nghị Pháp – Việt.

Hoạ sĩ Trương Đình Hào và các em học sinh tại phòng triển lãm Singapore.

Lần đầu tiên phái đoàn Lotus Gallery đến Singapore triển lãm.

Xuyên suốt 95 năm, bà Xuân Phượng đã sống đúng với quan điểm “Con người ta chỉ sống có một lần trong đời”. Dù ở tuổi nào, ở lĩnh vực nào, bà cũng  nỗ lực hết sức, và không ngại khó, ngại khổ để theo đuổi khát vọng cống hiến. Ngồi với bà một lúc và chứng kiến bao cuộc điện thoại thăm hỏi, phóng viên các báo, đài hẹn lịch phỏng vấn, ghi hình,… qua anh Thắng, trợ lý của bà, lại được biết ngày mai, mùng 7 tháng 11, bà lại được đến nhận giải thưởng VHNT (5 năm )của UBND TP.Hồ Chí Minh. Bà khuyên mọi người: “Nếu có điều kiện, hãy đi đến những nơi mình yêu thích để thay đổi hẳn không gian sống, nhưng nếu không có điều kiện thì cũng vẫn có thể “dạo chơi ngay trong chính căn nhà của tôi” như nhà văn Nguyễn Tuân từng nói”.

Trong căn hộ mà bà Xuân Phượng đang ở tại TP.HCM, ngoài các vật dụng và rất nhiều sach. Tôi quan sát có một góc xinh xắn, đặt nhiều chậu cây hoa với nhiều sắc màu khác nhau. “Không quan trọng là giàu hay nghèo, hãy tạo cho mình một góc yêu thích ngay trong nơi mình ở” – đạo diễn, nhà văn Xuân Phượng chia sẻ.

Tôi xuống Vũng Tàu cùng những cuốn sách bà tặng, để kịp sớm hôm sau khai mạc trại sáng tác trên chuyến xe  cuối ngày. Trời Sài Gòn cuối thu sớm tắt nắng, thành phố đã bắt đầu lên đèn. Trong lòng bao xốn xang về hình ảnh bà lão nhân hậu, tươi cười, cùng những câu chuyện trực tiếp nghe từ một nhân chứng lịch sử, từ người mà tôi vô cùng ngưỡng mộ. Người nắm giữ một kho tư liệu quí giá, sống vắt qua hai thế kỉ, người có công lớn đưa hội họa Việt Nam ra thế giới-vị cứu tinh của nhiều họa sĩ. Hóm hỉnh, minh triết, hào sảng và nhân ái chuyện văn, chuyện đời với biết bao đau thương mà bi hùng của một thời đã qua./.

                                                                                      Nhà Sáng tác Vũng Tàu, 9/11/2024

Đỗ Ngọc Dũng

Tin cùng chuyên mục

“Vỏ tương lai” (Cover of Future) tác phẩm truyền tải thông điệp bảo vệ môi trường mạnh mẽ

Ngay ngày làm việc đầu tiên của năm mới Ất Tỵ 2025, chiều 3/2, đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ đã đến thăm,...

Danh họa Nguyễn Sáng và Bảo vật quốc gia “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ”

“Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” là bức họa đặc biệt nhất của danh họa Nguyễn Sáng hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và là Bảo vật quốc gia. Tác phẩm...

Bàn tay tài hoa ‘thổi hồn’ cho gốm, gỗ

“Còn sức khỏe, tôi nguyện được vẽ cho quê hương, vùng miền đất Tổ; được đắm chìm với tâm hồn dân tộc Việt qua các tác phẩm điêu khắc – không chỉ mang hơi thở đời sống đương...

Nhà điêu khắc Triệu Tiến Công: Người tạc hồn cho gỗ

Trong nghệ thuật điêu khắc, yếu tố đầu tiên là chất tạo hình có sự chuyển động của cách thức tạo khối mà người nghệ nhân phải “tìm hình, tìm khối” một cách mạch lạc. Đối với anh,...

Anh giáo làng đam mê điêu khắc

Học ngành sư phạm, về quê làm giáo viên “trường làng”, nhưng anh Triệu Tiến Công (Phú Thọ) vẫn đam mê điêu khắc. Anh đang cần mẫn làm trăm bức điêu khắc gỗ để hướng đến một triển lãm...

Có thể bạn quan tâm

Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm tổ chức triển lãm kỷ niệm 70 chiến thắng Điện Biên Phủ

Triển lãm kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024) do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm tổ chức tại Nhà triển lãm 29 Hàng Bài, Hoàn Kiếm,...

SƠN TRÚC – NGƯỜI PHỤ NỮ SÁNG TẠO

  Trong thế hệ của mình, có thể nói, Sơn Trúc là một trong những họa sĩ sớm có tên tuổi và sớm tìm ra được một tiếng nói riêng, một con đường đi riêng, là mình nhưng không hề lạc lõng,...

Hiện thực và Siêu thực: Hai trạng thái của vòng lặp

  Trong nghệ thuật biểu hình, hiện thực và siêu thực là hai ngôn ngữ thể hiện rất rõ cách nhìn về đời sống và thế giới nội tâm của mỗi họa sĩ. Triển lãm Vòng lặp khai mạc vào ngày 30/5...

Triển lãm “CHUNG BƯỚC QUÂN HÀNH 2024”

Khai mạc triển lãm “CHUNG BƯỚC QUÂN HÀNH 2024” của CLB sáng tác đề tài Bảo vệ Tổ quốc – Hội...

Thông báo về triển lãm mỹ thuật khu vực VII Đông Nam Bộ lần thứ 26 năm 2021

 ...

Bridget March và khát vọng làm họa sĩ ở Việt Nam

Trước khi đến với Việt Nam, Bridget March là một giảng viên môn hội họa tại Trường Cao đẳng nghệ thuật Leeds (Anh Quốc), nhưng khát khao được làm nghệ thuật luôn bừng cháy trong tâm hồn bà....