
Trong các họa sĩ Pháp từng sống, sáng tác và dạy học ở Việt Nam, có ba người cần nhắc tới trước tiên: Victor Tardieu, Joseph Inguimberty và Alix Aymé.
Alix Aymé là một phụ nữ xinh đẹp có cuộc đời giống như một huyền thoại. Bà bắt đầu vẽ từ rất sớm, và chỉ chịu buông bút vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời ở tuổi 95. Hiếm có họa sĩ Pháp nào, nếu không nói là duy nhất, vẽ bằng nhiều chất liệu như Alix. Bà vẽ bằng sơn dầu, tempera, màu nước, thậm chí vẽ cả tranh tường (bức tranh vẽ cho Hoàng cung ở Luang Prabang) như một họa sĩ phương Tây, nhưng cũng vô cùng thành thục sử dụng mực nho, lụa như một họa sĩ Trung Hoa hay Nhật Bản; và đặc biệt, bà không chỉ học về sơn mài, vẽ bằng sơn mài mà còn tham gia hướng dẫn về sơn mài tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội.
Alix Aymé trải qua hai đời chồng, “Aymé” là tên họ của người chồng thứ hai, một vị tướng (anh của nhà văn Marcel Aymé nổi tiếng, tác giả cuốn “Người đi xuyên tường”). Và Trung Quốc chính là điểm đến đầu tiên của bà tại châu Á, cùng với người chồng đầu tiên, nơi bà có điều kiện trực tiếp tìm hiểu, học tập nền hội họa lụa của “nửa bên kia thế giới” và những con người đầu tiên trên thế giới vẽ lụa.
Đối với một người phương Tây thì vẽ lụa (hay vẽ sơn mài) không phải là chuyện đơn giản, vì bất cứ chất liệu hội họa nào cũng đều ít nhiều mang tính “bản địa” xuất phát từ nền văn hóa sinh ra nó. Nhưng chỉ qua bức tranh lụa này, người ta đã có thể thấy ở Alix Aymé một năng khiếu và tài năng đặc biệt. Từ cái sắc sảo của cách nhìn, bà đã tạo ra cái sắc sảo của hình thức thể hiện, hòa nhập với tinh thần Á Đông mà vẫn không đánh mất đi bản sắc phương Tây của mình. Ở đây, rõ ràng mọi yếu tố phù phiếm đã bị lược bỏ, mục tiêu hội họa chỉ hướng tới bản chất, một sự tối giản “hiện thực” trữ tình và sống động, không sa vào khái niệm hóa.
F.A.M.
***

Đây là một bức tranh tĩnh vật lạ và hiếm của Joseph Inguimberty, họa sĩ vốn chỉ được chúng ta biết đến qua các tranh sinh hoạt, phong cảnh, đặc biệt các tranh vẽ thiếu nữ. Ông được mệnh danh là “Renoir của xứ Bắc Kỳ”, một họa sĩ bậc thầy của ngoại cảnh “nguyên vẹn”, từng sống, dạy học , sáng tác tròn 20 năm ở Việt Nam. Bức tranh tĩnh vật này đã được Inguimberty vẽ vào khoảng cuối những năm 1950 đầu 1960, trong thời gian ông sống ở Menton/Garavan.
Đặc điểm hội họa và cũng là biệt tài của Inguimberty là ông hay vẽ mọi sự vật dưới ánh sáng chiếu thẳng đứng từ trên xuống (nhất là nắng chính ngọ). Điều này cũng phản ánh tính cách của ông như một họa sĩ xuất thân từ nghệ thuật trang trí, sử dụng ánh sáng đấy, nhưng lại không muốn bị vướng víu quá nhiều vào các bóng đổ, nhất là các bóng đổ nghiêng, có thể gây hại cho cấu trúc không gian trong lối vẽ mang tính sơ đồ đặc biệt của ông, một lối vẽ đã đưa ông – một họa sĩ cổ điển lãng mạn – đến khá gần với một số họa sĩ hiện đại.
Là một họa sĩ yêu ánh sáng, ánh sáng trời, Inguimberty về cơ bản làm việc như một họa sĩ ấn tượng. Ngay cả ở bức tranh này, ông cũng đưa tĩnh vật ra khỏi nội thất, hòa chúng vào phong cảnh, dưới ánh nắng, và như biến các vật trong phong cảnh thành những tĩnh vật lớn trong bức tranh của ông. Dễ dàng thấy ở đây một hai đồ vật ông đã đem về từ Việt Nam, vẽ chúng cùng với hoa lá và những đồ vật khác như để gắn thực tại vào những hoài niệm về một thời gian xưa cũ, về Việt Nam, nơi ông đến khi mới ở tuổi 29, và cũng là nơi sự nghiệp hội họa của ông nở rộ.
Ánh nắng ôn đới này, màu sắc rực rỡ, chói chang này, làm ta nhớ ánh nắng nhiệt đới ở đất nước chúng ta. Tình cảm của người họa sĩ Pháp với thiên nhiên, cuộc sống, con người Việt Nam xem ra vẫn còn thắm thiết lắm.
F.A.M.

***

Bức tranh này thuộc về thời kỳ truyền thống của Lê Phổ, trong những năm ông phát hiện hội họa Tiền Phục hưng châu Âu (Pháp, Ý, Đức, Flamande), hội họa Trung Hoa cổ, với “sự pha trộn bất thường giữa nghệ thuật Cơ đốc giáo và nghệ thuật sùng đạo Phật”. Nó có thể được ông sáng tác vào khoảng 1938, tức là trước khi ông nhập ngũ vào quân đội Pháp trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai vài năm.
Thực ra, những tranh lụa như thế này của Lê Phổ gây xúc động đặc biệt và sâu sắc hơn những tranh sơn dầu thuộc thời kỳ lãng mạn của ông về sau, vừa do cái bản chất thâm trầm, kín đáo sâu xa vốn có của tranh lụa, vừa do sự ngạc nhiên lớn của một chàng họa sĩ khi đó còn rất trẻ trước những chân trời nghệ thuật kỳ lạ đột nhiên mở ra trước mắt.
Phong cách thanh đạm có phần khắc kỷ này thực vô cùng thích hợp cho những đề tài cao cả, vĩnh hằng như tình mẫu tử. Ở đây cần sự súc tích, trau chuốt, cân bằng giữa lý tính và cảm tính, lý tính để thuyết phục và cảm tính để nhạy bén, không câu nệ, biểu lộ được cái nhìn chủ quan, riêng tư của người vẽ trước đề tài.
F.A.M.
***

***

Có rất nhiều họa sĩ vẽ Huế, cả họa sĩ Việt Nam lẫn họa sĩ Pháp, nhưng dường như chỉ có các họa sĩ người Huế, sinh ra và lớn lên ở Huế, như Tôn Thất Đào, mới thể hiện được hết cái thần thái ngân nga những âm vọng xa xưa của xứ Huế. Tím Huế không chỉ là một màu tím đặc biệt về mặt thị giác. Nó còn là màu của nhận thức và cảm nhận về Huế, mà vì thế nó lại càng đặc biệt hơn.
Một họa sĩ vẽ cả lụa và sơn dầu như Tôn Thất Đào thì bao giờ cũng có một cách thể hiện hội họa dễ nhận ra như ở bức tranh này. Nét bút mềm mại ve vuốt những mảng màu nhuần nhị, hơi ngà ngà, bàng bạc, âm u, làm hiện lên một thứ ánh nắng nhẹ lấp loáng, ấm áp, chỉ vừa đủ để chiếu sáng người và cảnh.
Trong hội họa xưa nay, đây là một đề tài mang tính đặc trưng giai thoại (kể về những mẫu truyện đẹp), rất phổ biến, nơi người họa sĩ bao giờ cũng phải vượt qua nhiều thử thách để tạo ra cái gì đó của riêng mình. Cảm xúc mang đầy tính giai điệu đã mang đến một bố cục hình tháp cổ điển có vẻ như chặt chẽ nhưng thực ra lại rất thanh thản, hình thực nhưng thực ra lại giàu chất trang trí , không khí tươi tắn nhưng thực ra lại trầm mặc – chính là thành công của Tôn Thất Đào trong bức tranh này.
F.A.M.

***

Cuộc đời Hoàng Lập Ngôn tựa như một cuộc rong chơi bất tận. Với ông, hội họa trước hết là một nhã thú của văn nhân, luôn luôn cân bằng giữa mộng-thực. Thị hiếu của ông ngả về cổ điển, mang màu sắc trầm mặc Á Đông, nhưng vẫn có cái tươi vui, dí dỏm, tình cảm yêu đời trong sáng, thậm chí hơi ngộ nghĩnh.
Ông vẽ cái gì cũng nhè nhẹ, sương khói nhưng vẫn rất đời, rất thực, trong mọi vẻ sống động của nó. Hướng tới nghệ thuật cách điệu, lấy “tinh tướng” của nhân vật (như ông nói) nhưng cốt cách các nhân vật của ông lại hết sức tự nhiên, đem đến cái nhìn sảng khoái. Các bức tranh mực nho trên giấy xuyến chỉ hay tranh lụa có lẽ vì thế mới giúp ông thể hiện được hết tinh thần hội họa ấy.
Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (khóa 9, 1933-1938), Hoàng Lập Ngôn đi vẽ ở Lào hai năm (1939-1940). Bức tranh ở đây có thể đã được ông vẽ từ các tư liệu ghi được trong chuyến đi Lào năm xưa ấy của ông.
F.A.M.

Tranh của Nguyễn Anh được biết đến không nhiều, và những tranh của ông được biết đến cũng chủ yếu là tranh lụa.
Nguyễn Anh sinh ở Sài Gòn, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 6 (1930-1935), từng dạy học ở một số trường. Từ 1946 đến 1950, ông tu nghiệp tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia ở Paris. Năm 1970, ông là hiệu trưởng Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn. Và từ 1975 ông sang định cư ở Pháp.
Bức tranh sơn dầu này được Nguyễn Anh sáng tác vào năm 1975, theo một phong cách có thể gọi là “Đông Dương-Pháp-Nam Bộ”. Thật khó nghĩ khi một họa sĩ đã từng vẽ những bức tranh đề tài công giáo theo phong cách biểu tượng như ông lại có thể quay về với một đề tài sinh hoạt bình dân dân dã như thế này, và hơn nữa, quay về với một tình cảm chân thực đến nao lòng. Trong một bố cục hầu như không có bối cảnh, hay nói đúng hơn, chỉ loáng thoáng thấy có mặt đất và bức tường, người họa sĩ đã đưa hình tượng ba người phụ nữ đang bán và chọn mua chuối và đu đủ, dưới ánh sáng trong trẻo của nắng ban mai, làm hiện lên một cảnh tượng dẫu vô cùng quen thuộc nhưng mà lạ. Lạ không những ở cách “đặt vấn đề”, lạ cả ở trong cách diễn tả, giữa cái thiếu và cái đủ, giữa cái thực và cái hư, giữa cuộc đời và sân khấu. Thật là một bức tranh đơn giản, thú vị, nhẹ nhõm mà ẩn chứa ở đằng sau nhiều suy tư sâu sắc.
F.A.M.

Trong bộ “tam mã”: Trần Văn Cẩn, Nguyễn Khang, Lương Xuân Nhị – thì tính cách của một “enjoliveur” (người tô điểm cho xã hội) ở Lương Xuân Nhị dường như rõ hơn cả. Ông thuộc loại họa sĩ mà người Pháp gọi là “peintre charmant”, họa sĩ có cái đẹp thú vị, tỏa hương thơm.
Trong hội họa của Lương Xuân Nhị, hầu như ở thể loại-đề tài nào ông cũng chọn được cách thể hiện tương ứng với chất liệu mà ông sử dụng. Cùng là vẽ hoa, khi ông chọn khắc gỗ, khi sơn dầu, khi phấn màu, và đôi khi là “thủy mặc”, nhưng người ta vẫn dễ dàng nhận ra phong cách của ông, lành mạnh, đằm thắm, thanh tao, với cách nhìn cách cảm của một trí thức thành thị.
Ở bức tranh vẽ hoa huệ này, cũng vậy, cho dù các nét bút của ông có mực thước, trịnh trọng, óng chuốt đến đâu thì ánh sáng, cảm xúc vẫn rung rinh, chan hòa, lấp lánh một vẻ đẹp có cốt cách lộng lẫy nhưng kín đáo.
Ông không bao giờ đi vào “hình thức thuần túy” mà luôn luôn lấy người xem làm đối tượng phục vụ, dùng tình cảm chân thực để thức dậy ở họ tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và niềm vui trước cái bình dị mà đôi khi vẫn bị con người lãng quên. Thị hiếu nghệ thuật cổ điển ở đây như đã tìm được tiếng nói gần gũi, khó lạc lõng, phai nhạt theo thời gian.
F.A.M.


Hà Tây-xứ Đoài cổ từ lâu đã là vùng đất nghệ thuật của rất nhiều họa sĩ Việt Nam. Là người Huế, ra Bắc từ 1943 để theo học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Trần Duy không chỉ nhớ Huế, mà ông còn luôn luôn nhớ xứ Đoài, nơi ông đã từng theo Trường Mỹ thuật đi sơ tán để tránh những trận bom oanh tạc của quân Đồng Minh nhằm vào phát xít Nhật ở Hà Nội trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Trong hàng ngàn tranh lụa ông vẽ trong suốt hơn 30 năm, riêng mảng tranh vẽ về xứ Đoài, chùa Thầy chiếm một phần lớn.
Phong cách vẽ lụa của Trần Duy như sinh ra để diễn tả tâm tình trước cảnh. Từ những bức tranh đơn sắc đầu tiên, ông chuyển sang vẽ đa sắc, với kỹ thuật dùng màu gián tiếp (vẽ chồng các màu nguyên) hơn là dùng màu pha trực tiếp. Có thể vì vậy mà tranh ông rất có đặc tính, khó có thể trộn lẫn với tranh của bất kỳ ai. Ngay cả sự tỉ mỉ qua vô vàn những nét bút nhỏ cũng làm cho tranh ông càng thêm trở nên riêng biệt.
Dưới bàn tay ông, một luồng ánh sáng cho dù hết sức tinh nhẹ cũng đủ để chiếu rọi mọi hình thể, chất liệu (đặc biệt các chất gỗ, đá, gạch ngói rêu phong), làm thức tỉnh sự sống tiềm ẩn vô cùng thi vị của sự vật. Ở đây, tình yêu thiên nhiên, niềm hoài cổ đã khéo hóa thành một thứ “tình cảm triết học”, tự nhiên và man mác, dễ đi vào lòng người xem.
F.A.M.


Tiến trình nghệ thuật của Trần Phúc Duyên tại Pháp và sau đó tại Thụy Sỹ có phần làm gợi nhớ đến tiến trình nghệ thuật của Zao Wou-ki, tức là đi từ cụ thể-khách quan sang chủ quan-trừu tượng bằng sự kế thừa nghệ thuật Á Đông trong môi trường nghệ thuật châu Âu hiện đại. Và bức tranh này của Trần Phúc Duyên nằm ở khoảng giữa bước chuyển ấy.
Trên thực tế, trong hội họa sơn mài, Trần Phúc Duyên có ba “phông” chính: đỏ, trắng bạc, và cuối cùng là vàng. Màu vàng của ông khá đặc biệt, không phải vàng kim, không phải phủ hoàn kim, cũng không hẳn do bột Nhật, mà là một màu vàng tươi có ánh trầm, man mát, có âm vang như một sản phẩm riêng mang tên Trần Phúc Duyên.
Về mặt phân loại, những tranh nền vàng như vậy thuộc về thể loại sơn mài sáng (laque claire), và với chủ sắc vàng này, Trần Phúc Duyên đã thể hiện rất nhiều đề tài, trong đó có phong cảnh. Ở đây ông diễn một cơn gió mạnh trên biển, ở kia ông diễn một ngọn núi mù mây hay đang ẩn hiện trong ánh trăng mờ ảo. Tất cả đều hòa trộn trong một phong cách phức hợp đến từ những ảnh hưởng của tranh lụa Trung Hoa cổ, tranh khắc gỗ Nhật Bản thế kỷ 17 và các yếu tố tiếp nhận được từ hội họa châu Âu hiện đại, trên một tinh thần và tình cảm rất Việt Nam.
Bởi vậy, hội họa của Trần Phúc Duyên chẳng những được công chúng châu Âu ưa thích, mà gần đây cũng đã nhận được sự cảm thông, yêu thích của công chúng cũng như các nhà sưu tập nghệ thuật Việt Nam.
F.A.M.





