Khách đến Dinh Độc Lập để tham quan dễ nhận ra rằng đến đây không chỉ để xem và hiểu về một tòa nhà làm việc của chính quyền chế độ cũ, mà còn có dịp ngắm nghía một công trình kiến trúc quan trọng và có tầm cỡ, được xem cách bày trí nội thất của một dinh thự cao cấp nhất của một quốc gia, và những tác phẩm mỹ thuật của một thời.
Tác phẩm sơn mài cực lớn “Bình Ngô đại cáo” của hoạ sĩ Nguyễn Văn Minh bày trong Dinh Độc Lập đã được đề cập đến trong tập 1 cuốn “Sài gòn chuyện đời của phố”. Ở đây, xin giới thiệu tiếp ba bức tranh hiện đang trưng bày tại Dinh thự này.
BỨC QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Trong phòng Khánh tiết Dinh Độc Lập có một bức tranh lớn, có chiều dài 5,4m và chiều rộng 2,34m. Bức tranh có tên là “Quốc Tổ Hùng Vương”. Đây là cái tên thường dùng, tuy nhiên lúc đầu, tác giả đặt tên cho tranh là “Việt Nam Quốc Tổ”. Người sáng tác bức tranh này là họa sĩ Trọng Nội.
Họa sĩ Trọng Nội tên thật là Trần Trọng Nội, được xem là thủy mặc gia Việt Nam. Ông chuyên thực hiện tranh bích họa đắp nổi cho các cơ sở tôn giáo. Ông là tác giả bức “Phật Đản” tại chùa Phổ Quang, hai bức “Hội nghị Diên Hồng” và “Bạch Đằng Giang” ở đền thờ Trần Hưng Đạo, bức “Hội hoa nghiêm” cao 2,5m, dài 8,5m tại chùa Kim Cương, đường Trương Tấn Bửu (Trần Huy Liệu). Bức “Bồ tát Quảng Đức tự thiêu” cao 2m được vẽ bằng máu của chư Tăng Ni, Phật tử, do ông vẽ năm 1963 giữa mùa pháp nạn đặt tại phòng Khánh tiết của chùa Quan Thế Âm.

Trọng Nội sinh năm 1924 tại Hà Nội. Sở trường của ông là thủy mặc, vẽ mực tàu trên giấy bản, đề tài là hoa lá chim muông ghi lại cảnh sinh hoạt. Ông vẽ tranh về đề tài các trận đánh cổ xưa, trên giấy bản, mực tàu điểm xuyết bằng màu điểm xuyết màu hồng xạ, hoa hiên, chu sa nguyên chất thuần túy dân tộc… Từ năm 1957, ông chuyển hướng thực hiện tranh đắp nổi bằng xi măng. Ngoài ra còn khắc chân dung và phong cảnh trên ngà voi.
Ngày 22 tháng 6 năm 1966, họa sĩ Trọng Nội gửi thư đến Phủ Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương và Kiến trúc sư trưởng Ngô Viết Thụ là tác giả đồ án Dinh Độc Lập để xin tặng tác phẩm “Việt Nam Quốc tổ” để trưng bày trong Dinh Độc Lập mới xây xong. Trong thư ông nêu: “Tác phẩm kể trên tượng trưng ý nghĩa đề cao dân tộc Việt Nam, tôi ước mong được góp phần bé nhỏ vào công trình kiến trúc Dinh Độc Lập, nhân dịp khánh thành…”. Ngay trong ngày hôm đó, ban trang trí Công trường Dinh Độc Lập sau khi nhận thư, đã có ý kiến ngay với các vị được nêu trong thư: “Nhận thấy đây là một tác phong cao đẹp của một nghệ sĩ chân chính, nghèo tiền nhưng không nghèo lòng, sẵn sàng đóng góp phần mình vào kho tàng nghệ thuật quốc gia bằng một hy sinh lớn lao. Ban tôi trân trọng xin quý vị sớm cho biết tôn ý về vấn đề nêu trên, để việc sử dụng bức tranh, trong trường hợp thuận lợi, khỏi bị chậm trễ”.


Bốn ngày sau, KTS Ngô Viết Thụ gửi một bức thư đến quản đốc công trường Dinh và Phủ chủ tịch Ủy ban hành pháp cho biết là ông “hết sức hoan hô nghĩa cử đó của họa sĩ” và đề nghị ra lệnh đóng gấp một cái khuôn dành cho bức tranh.
Bức tranh này được họa sĩ Trọng Nội hoàn thành đúng bốn tháng sau ngày viết thư đề nghị hiến tranh, ngày 22/10/1966, và kịp trước khi khánh thành 9 ngày. Tranh ghép gồm 8 tấm cốt gỗ, dán giấy xuyến chỉ phủ bề mặt. Họa sĩ Trọng Nội thể hiện tranh bằng chất liệu màu nước, diễn tả nhân vật và không gian theo lối đồ họa, chủ yếu diễn tả bằng nét, điểm màu có tiết chế. Nhân vật trung tâm được vẽ lớn hình ảnh đức Quốc Tổ Hùng Vương đang ngồi rất uy hùng giữa hai hàng văn võ bá quan, tay phải ông đang cầm bút viết hai chữ “Văn Lang” ( bằng chữ Hán) quốc hiệu đầu tiên của nước Việt Nam, tay trái ông cầm mũi tên. Hậu cảnh vẽ cách điệu hoa văn sóng nước và mây. Mặt trước bệ gỗ đặt ghế ngồi có chữ “VIỆT NAM QUỐC TỔ”. Góc trái của bức tranh có đề tên tác giả “Trọng Nội” bằng chữ Hán ở trên, chữ Việt ở dưới, giữa là dấu triện màu đỏ. Góc phải của bức tranh có chữ “31-10-1966”, dưới là chữ “VIET NAM”.
Sau đó, khuôn bức tranh đã được đặt chính họa sĩ Trọng Nội thực hiện với chi phí trị giá 106.000 đồng (trị giá 1 USD năm 1966 khoảng 80 đồng). Khung thể hiện bằng sơn mài màu vàng và đen, màu đen nhạt và đậm dần ra mép khung. Bản khung rộng một tấc, dày nửa tấc, phần đỡ khung tranh rộng 4cm. Trang được hai bo trên và dưới, bọc vải tơ tằm màu vàng nhạt và đỏ sậm.
Hiện nay, tranh vẫn được treo ở vị trí cũ, màu đã bị bạc theo thời gian. Bức tranh với phong cách, màu sắc và hình tượng cổ điển, gợi lên không khí cổ xưa đầy huyền thoại.
BỨC SƠN HÀ CẨM TÚ
Trong buổi lễ khánh thành ngày 31 tháng 10 năm 1966, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ khi trình bày về những điểm chính của đồ án Dinh Độc Lập đã dẫn bức tranh “Sơn hà cẩm tú” do mình vẽ để nói lên quan điểm về kiến trúc của ông: “Như bức tranh Sơn hà cẩm tú mà chúng tôi đã vẽ để trang trí phòng đại yến của dinh này để nói lên sự cố gắng dùng một chất liệu, và kỹ thuật kim thời nếu không nói là Âu Mỹ để diễn tả một tâm hồn Việt Nam mà quý vị sẽ thấy trong phòng ăn lớn, tóm tắt các khuôn phép mà chúng tôi đã dùng khi nghiên cứu phối hợp Dinh này. Chúng tôi muốn đánh dấu trang sử giành độc lập của dân tộc trong các công trình có tánh cách văn hóa bằng cách thực hiện tác phẩm bằng vật liệu đương thời với tất cả phương thức của nó…”.



Bức tranh này, với phong cách tranh sơn thủy, thể hiện phong cảnh đất nước Việt Nam đồng hiện trong bức tranh các sắc thái riêng biệt của ba miền Bắc Trung Nam. Phía bên trái của tranh là phong cảnh miền Bắc với núi non trùng điệp, giữa là miền Trung với cảnh Ngọ môn Huế và bên phải là miền Nam với đồng bằng và sông ngòi. Phía trên bên trái của tranh có hai câu thơ bằng chữ Hán: “Cẩm tú sơn hà, thái bình thảo mộc” tạm dịch là: “Non sông gấm vóc, cây cỏ thái bình”. Góc dưới bên phải của tranh có bút tích của tác giả. Bộ tranh đồ sộ không kém các họa phẩm khác trong dinh, ghép lại từ 7 bức nhỏ, mỗi bức dài 2m và rộng 1m. Toàn tranh dài 7m, rộng 2m. Bức tranh hoàn thành năm 1966 được treo trước khi khánh thành dinh.
Tuy được vẽ theo lối thủy mặc, bức tranh này lại được kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ bằng chất liệu sơn dầu hiện đại, chất sơn pha loãng hoặc đặc tùy theo nhu cầu vẽ khu vực phóng túng hay công bút. Có lẽ đó chính là điểm mấu chốt ông nhắc tới khi phát biểu như trên (dùng một chất liệu, và kỹ thuật kim thời nếu không nói là Âu Mỹ để diễn tả một tâm hồn Việt Nam). Khung tranh bằng gỗ phủ sơn màu xanh lá mạ, sau đó thếp vàng, viền khung bên trong màu cánh dán. Ở góc dưới bên phải của tranh có bút tích của tác giả: “Ngo Viet Thu 1966”.
BỨC HAI NÀNG KIỀU
Bức tranh này xuất hiện tại Dinh Độc Lập khá muộn, do họa sỹ Lê Chánh hoàn thành vào năm 1974 và được treo tại đầu hành lang lầu 3 của dinh. Hiện nay, tranh vẫn được treo ở vị trí như ban đầu.
Không có tài liệu nào cho biết bức tranh này được đặt mua hay được hiến tặng cho Dinh Độc Lập và duyên cớ xuất hiện bức tranh này tại đây sau khi khánh thành dinh tám năm sau. Tranh được vẽ bằng chất liệu sơn dầu trên toan. Kích thước tranh nhỏ so với các bức trên, chỉ dài 3,85m và cao 1,75m. Tính cả khung là 3,89m x 1,79m. Thành khung dày 9,2 cm. Tranh được lồng khung bằng gỗ, sơn véc ni màu nâu sậm. Góc trái của tranh có ghi tên tác giả và thời điểm sáng tác: “Lê Chánh 74”.


Nội dung tranh vẽ hai thiếu nữ trong trang phục áo dài chiếm khoảng lớn vị trí phía bến trái bức tranh, lớp cảnh giữa có hai nhân vật nam cùng hai tiểu đồng và một con ngựa trắng. Toàn thể là cảnh thiên nhiên, cận cảnh vẽ hoa cỏ, chim, hậu cảnh xa vẽ núi và trời. Thể hiện trọn vẹn đọan thơ tả cảnh hai chị em nhà họ Vương gặp Kim Trong trong truyện Kim Vân Kiều:
“Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
…
Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh”.
Tác giả đã Việt hóa cảnh này bằng cách cho hai nhân vật nữ mặc trang phục áo dài.
Họa sĩ Lê Chánh sinh năm 1940 tại Sài Gòn, học trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn từ năm 1959 đến năm 1964.
Qua thời gian, bức tranh “Hai nàng Kiều” đã bị rạn sơn, nhiều đường gập mặt sơn là dấu tích của tranh từng bị gấp lại.
Phạm Công Luận
(trích trong cuốn sách Sài Gòn chuyện đời của phố tập 3)